Sài Gòn một thuở: “Dân Ông Tạ đó!”- Tập 2 là những ghi chép về vùng đất đặc biệt của một “dân Ông Tạ” thứ thiệt: Cù Mai Công, theo gia đình đến vùng Ông Tạ năm 1954, khi còn là thằng bé “lội nước tắm mưa”, và đã long nhong học hành, rong chơi lẫn… đánh lộn ở nơi đây suốt thời thơ ấu.
Tác giả, đồng thời là một nhà báo kỳ cựu, hồi tưởng về quá khứ, những ngõ hẻm, quán ăn, cửa tiệm và bạn bè thân hữu. Nhưng vì tuổi thiếu niên của anh trùng với một giai đoạn nhiều biến động của miền nam (năm 1954 và sau 1975); cuốn sách mở ra những góc nhìn chân thực và đầy xúc cảm về một lớp người Việt từng trải qua chiến tranh, với nhiều khó khăn, ẩn ức, bi hài và cả hạnh phúc.
Dân Ông Tạ thuở đó
Khác với tập sách đầu tiên, phác họa toàn cảnh về vùng đất và một số nhân vật, trong tập 2 này, Cù Mai Công tập trung hoàn toàn cho những con đường, ngõ hẻm, hàng quán, cùng vô số chân dung cụ thể với các chuyện kể, giai thoại… - rất phong phú và tỉ mỉ - để khắc hoạ bản sắc vùng Ông Tạ, cốt cách người Ông Tạ.
Sách có vài chương dành cho từng vùng địa lý riêng: như các trục đường chính của khu trung tâm; các xóm cần lao bên kia cầu Ông Tạ; các cư xá xung quanh. Lại có vài chương được dành riêng cho các “khung trời ký ức” của người kể chuyện: Tết ở Ông Tạ; những khung trời tuổi thơ với bạn bè, thầy cô; “xóm Đại Lợi của tôi” với gia đình và những người hàng xóm.
Tác giả còn dành riêng hai chương cho hai con ngõ đặc biệt: Ngõ Con Mắt có nhiều nhân vật, văn nghệ sĩ khác thường; và ngõ Cổng Bom với chỉ hơn 100 nóc nhà, cư dân tần tảo, “một nắng hai sương”.
Dù ở chương nào, kể về khu nào hay “khung trời” nào, Cù Mai Công đều tỉ mỉ ôn lại từng quán cà phê, xe phở, gánh canh bún, lò bánh mì, tiệm hớt tóc, gánh nước mía, gánh cháo lòng… mà anh biết. Độc giả được phen nuốt nước miếng ừng ực khi nghe anh hồi tưởng về các món ăn thân thuộc Ông Tạ xưa (như kẹo lạc, trà Bắc, kẹo dừa nhào đường mật, bún chả, gỏi cuốn, bò viên, đậu hũ miến chiên giòn…)
Rồi anh kể đến từng cây mai, cây ổi, cây khế, một con hẻm cụt, cánh đồng rau muống, khu nghĩa địa, hồ bơi, rạp hát… Đi kèm với đó là rất nhiều những mẩu chuyện, kỷ niệm, giai thoại không đầu không cuối, hoặc ly kỳ, cảm động, hài hước hoặc rất… vu vơ.
Nhưng độc giả dần nhận ra trong cơ man vô số những địa danh, hàng quán, con người đó, tác giả chỉ cốt có một dụng ý là dựng lại cái không khí sống động, tươi đẹp, nhiều niềm vui và tình yêu thương… - điều nhiều dân Ông Tạ ngày nay luôn quay quắt nhớ về.
“Ở Ông Tạ 45 năm rồi không ngán sao?”, tác giả từng hỏi một người bạn. Câu trả lời nhận được thật đơn giản - “Ở Ông Tạ vui anh ạ” - đủ nói hết đặc trưng của vùng đất này.
Về con người, Cù Mai Công kể từ văn nghệ sĩ cho đến lính tráng; từ doanh nhân nổi tiếng cho đến bà con vô danh, tần tảo; từ nhà báo, công chức, mục sư cho đến… giang hồ. Qua những chân dung khác nhau, tác giả cũng phần nào làm rõ cốt cách của người Ông Tạ: “như thóc với khoai”, chan hòa, giản dị (“đi xe máy cùi, áo thun, dép lê, xăng đan”); nhưng trong số đó cũng lắm kẻ kiêu mạn, có máu liều, “lì thấy ớn”.
Việt Nam qua chân dung một lớp người
Như câu “của để dành”, chương cảm xúc nhất của cuốn sách dường như lại nằm ở gần cuối - khi Cù Mai Công kể về “xóm Đại Lợi của tôi”. Trong đó, anh viết rất kỹ và cảm động về tình cảm, tâm tư những người hàng xóm láng giềng.
Cái xóm Đại Lợi, theo tác giả, như đại diện rõ nhất cho nét bản sắc của người Ông Tạ: Có người gốc Bắc, có người Nam cố cựu, có người quê miền Trung, có người Tàu; nhưng họ sống chung với nhau vẫn thuận hoà, đùm bọc, yêu thương: “Mẹ tôi kể: lúc mẹ sinh nở xong, ông bà Tàu nấu gà ác mang sang. Bên đó xây nhà, cả nhà sang nhà tôi ở nhờ”.
“Bắc - Trung - Nam sống đẹp bên nhau, gần gũi và học hỏi nhau, chỉnh sửa cho nhau mọi điều, kể cả giọng nói, ẩm thực... Sau năm 1975, bà con xứ khác về đây nhiều hơn. Tất cả đều thành một gia đình mà giờ có người xa nhau đã nhớ nhau, nhắc về nhau đầy yêu thương”, tác giả viết.
Trong giới văn chương nghệ thuật, người ta thường rỉ tai nhau câu: “Cứ đi đến tận cùng cái riêng thì sẽ chạm vào cái chung”. Trong Sài Gòn một thuở: “Dân Ông Tạ đó!”, khi viết chân thành về những hồi ức cá nhân, về bạn bè, người quen, tác giả đồng thời cũng đánh động những cảm xúc chung có ở hầu hết bạn đọc, dù là “cái chung” vui hay “cái chung” buồn.
Đó là tuổi thơ êm đềm và tươi đẹp, là tình thân gia đình, tình bạn, tình hàng xóm…
Đó còn là nỗi niềm ly hương, chia ly, giã biệt… của người Việt Nam thời loạn lạc, chiến tranh. Như ai từng xa quê sẽ chạnh lòng khi đọc đến đoạn kể về nhạc sĩ Văn Giảng trong xóm Đại Lợi: Dù ở Sài Gòn hay hải ngoại, ông vẫn luôn thương nhớ quê nhà xứ Huế, có dòng sông Hương trong bài hát “Ai về sông Tương” của ông; như nhạc sĩ Hoài An (tác giả “Câu chuyện đầu năm”, “Tâm sự ngày xuân”) nhớ những thôn làng Hải Phòng xưa khi đêm đêm nhìn ra những mảnh đất trồng rau khu Ông Tạ…
Ta cũng biết hơn về những thân phận đi qua thời bao cấp nhiều vất vả - thấy rõ mồn một - dù chỉ từ vài chân dung nhỏ bé là người bạn của tác giả. “Sau năm 1975, khó khăn, mấy anh em nó mở tiệm sửa xe. Tôi hay ghé đó chơi và phụ bơm xe, cạy vỏ. Làm ở đó ít khách, có lúc nó mang đồ nghề ra ngồi trước nhà tôi trên đường Thoại Ngọc Hầu. Gương mặt học trò đẫm mồ hôi với cuộc mưu sinh trợ giúp cha mẹ”...
Trong Sài Gòn một thuở: “Dân Ông Tạ đó!”- Tập 2, Cù Mai Công vẫn giữ giọng kể bình dân, tỉnh rụi, làm đôi chỗ ta thấy giống một bác hàng rong, bác xe ôm Sài Gòn vẫn kể ta nghe thường ngày...