Tôi gặp Star lần đầu tiên cách đây 20 năm, khi anh còn là một người vô gia cư tại Thành phố New York. Anh kiếm những đồng tiền chân chính trên phố Astor bằng cách bán những đồ vật bị bỏ đi mà anh nhặt được. Thời điểm đó, anh là một anh chàng người Mỹ gốc Phi 28 tuổi không dùng chất kích thích, ăn mặc chỉn chu và nói năng nhẹ nhàng.
“Paul, anh sẽ không thể tin nổi người ta vứt những thứ gì ra đường đâu”, Star nói. Mọi thứ anh mặc trên người đều là đồ được nhặt về, kể cả chiếc quần jean hàng hiệu vô cùng vừa vặn kia. Tôi cầm lên hai chiếc đèn trang trí theo kiểu Art Deco (một trường phái nghệ thuật khởi nguồn từ Paris vào những năm 1920) anh bày trên chiếc chăn của mình, nhưng rồi tôi nhớ ra mình không mang theo ví. Lúc vừa định quay về nhà lấy tiền, tôi thấy có người chạm vào vai mình. “Đây, anh cứ lấy mấy cái đèn này đi”, Star nói. Tôi thật sự cảm động khi một người vô gia cư như anh lại có thể hào phóng đến thế.
Lúc bấy giờ, Star đang phải ngủ trong Công viên Quảng trường Tompkins. Hai năm trước đó, anh về nhà và phát hiện vợ mình dan díu với một người đàn ông khác. Star lập tức chuyển ra ngoài sống, bỏ lại vợ cùng hai đứa con nhỏ và sau đó, vì không thể tập trung làm việc nên anh đã không thể giữ được công việc bảo trì tòa nhà.
Suốt bốn năm sau đó, với sự giúp đỡ từ những người bạn của tôi, Star tìm được một công việc mới và chúng tôi đã đưa anh ấy trở lại gặp các con mình. Hai cậu con trai của anh lao vào ôm chầm lấy anh. Star nói đó là ngày tuyệt vời nhất trong cuộc đời anh. Đồng thời, đó cũng là một trải nghiệm tuyệt vời đối với tôi.
Tôi thấy hình ảnh của bản thân ở Star. Tôi vẫn khư khư giữ lấy nỗi tủi hờn từ thời thơ ấu, bao gồm cả nỗi sợ hãi cha mình, hay nói đúng hơn là hình ảnh mà tôi đã gán ghép cho cha. Tôi vẫn còn giận vì những gì cha tôi đã hét vào mặt tôi nhiều năm về trước: “Tỉnh táo lại đi, không thì mày sẽ chẳng làm nên trò trống gì đâu”.
Star đã tìm được việc làm và một nơi để sống trong sáu tháng, nhưng cuối cùng anh đã nghỉ việc vì ông chủ mới của anh cứ liên tục la lối mấy lời phân biệt chủng tộc và Star lại một lần nữa trở thành người vô gia cư. Thời điểm đó, mỗi khi có việc cần rời thành phố, tầm vài lần mỗi tháng, tôi sẽ để Star ở lại căn hộ của mình. Một lần, khi tôi quay về nhà thì thấy tivi, đầu máy video và radio của mình đều biến mất. Star đã sa vào con đường nghiện ma túy. Thế nhưng, ngạc nhiên là tôi không hề thấy giận anh. Tôi biết đây chỉ là một sai lầm nhất thời, không thể nói lên điều gì về con người thật của anh cả. Nhưng hành động này đã phần nào nói lên những nỗi đau anh đang phải chịu đựng. Đó là lúc anh cần tôi hơn bao giờ hết. Tôi hoàn toàn không để bụng lỗi lầm của anh.
Nhờ tha thứ cho Star cũng như nhận ra những động lực sai lầm đang dẫn dắt anh, tôi đã hiểu hơn về cách cư xử của cha mình ngày trước. Tôi nhận ra rằng những lời khó nghe bộc phát của cha đơn giản là biểu hiện của những nỗi đau ông đang phải gánh chịu. Cả hai người đàn ông ấy đều yêu thương tôi và đều gặp phải những khó khăn riêng mà họ vẫn chưa vượt qua được.
Sau vụ bị mất đồ, tôi đã học được một bài học đáng nhớ về những giới hạn tối thiểu trong việc tin tưởng người khác, nhưng tôi cũng biết rằng Star đang lạc lối. Anh cảm thấy xấu hổ và cực kỳ ân hận vì những việc mình đã làm. Vào lần tiếp theo gặp nhau, anh đã xin lỗi tôi. Tôi nói với anh rằng tình bạn của chúng tôi quan trọng hơn những thứ vật chất ấy.
Thời điểm mới gặp Star, tôi đang dồn tất cả tâm sức cho sự nghiệp diễn hài độc thoại vốn không mấy suôn sẻ của mình. Tôi lo sợ tôi sẽ không thể đạt được những thứ mình cần: sự nổi tiếng, khả năng chứng tỏ bản thân, tiền thuê nhà. Tôi không có thời gian để cân bằng cuộc sống – thời gian dành cho những kỳ nghỉ, những mối quan hệ hay những buổi ngắm hoàng hôn. Nhưng nhờ làm bạn với Star, tôi cũng dần học được cách mở lòng.
Năm năm sau khi gặp Star, tôi chuyển đến Los Angeles và sự nghiệp của tôi bắt đầu chững lại. Tôi lúc này đã 37 tuổi và đang ở thời điểm tuyệt vọng nhất trong đời. Tôi hoàn toàn rỗng túi và cảm thấy vô cùng tuyệt vọng – dường như cha tôi đã nói đúng. Giờ đây, tôi đã học được cách chấp nhận sự thật rằng cha tôi thật ra là một người đàn ông thành công. Suốt thời niên thiếu, tôi lúc nào cũng thấy xấu hổ chỉ vì cha tôi làm nghề người đưa thư kiêm bảo trì tòa nhà và ông lái một chiếc xe hơi cũ kỹ 10 năm tuổi. Nhưng cha đã một mình kiếm tiền nuôi lớn bảy đứa con trai, trong khi tôi còn chẳng thể nuôi sống bản thân.
Khi tôi còn đang đắm chìm trong nỗi thất vọng về vận may của mình ở Los Angeles thì Star bỗng liên hệ với tôi qua điện thoại. Giờ đây, Star đang trên đà thăng tiến. Anh hiện đang làm quản lý của một tòa nhà, tham gia vài khóa học đại học, đang sống cùng các con trai và đã không đụng đến chất kích thích được bốn năm. Anh nói: “Tôi không biết cảm ơn anh như thế nào cho đủ, Paul ạ”.
Nước mắt tôi chực trào. Nếu Star có thể thay đổi cuộc sống bế tắc của anh theo hướng tốt đẹp hơn như thế, thì tôi cũng có thể. Tôi bắt đầu nhận ra một khía cạnh khác trong những lời nói cay nghiệt của cha mình. Cha tôi đã nói đúng: tôi sẽ chẳng thể làm nên trò trống gì nếu không chịu tỉnh táo ra và nhìn nhận lại cuộc sống của mình. Chuỗi ngày bất hạnh này sẽ tiếp diễn nếu tôi cứ sống mãi với lối suy nghĩ tiêu cực như thế. Thế giới của tôi mãi chìm vào tăm tối vì tôi cứ tự tay tắt đi ánh sáng.
Gần đây, khi nối lại liên lạc với Star, tôi được biết rằng anh đã bị mù cách đây bốn năm. Thái độ lạc quan của anh khiến tôi kinh ngạc. Anh bình thản nói: “Paul, tôi chưa bao giờ tự hỏi ‘Tại sao lại là tôi?’. Bên cạnh cú sốc và nỗi sợ hãi ban đầu, tôi còn tìm thấy cả sự biết ơn và kỳ lạ thay, tôi đã thấy được những gì tôi chưa từng nhìn thấy được khi còn sáng mắt. Nỗi sợ lớn nhất của tôi khi tôi còn nhỏ chính là bóng tối. Anh có tin được không? Bây giờ tôi đã có thể tự mình đi lại, tự mình băng qua đường. Thỉnh thoảng tôi cũng cần được giúp đỡ, nhưng tôi có thể tự làm được nhiều việc hơn những gì tôi từng nghĩ. Tôi có thể tự giặt giũ và còn tự nấu ăn. Tôi có được một nhận thức mới. Tôi biết chính xác vị trí của mọi vật dụng trong căn hộ của tôi.
Hồi ở trong trại cai nghiện, mỗi ngày một người đàn ông sẽ dẫn chúng tôi đi dạo xung quanh và chỉ cho chúng tôi vị trí của quán cà phê, quầy bán xúc xích cũng như ngân hàng. Anh ấy đã làm việc này mỗi ngày trong suốt hai tuần. Về sau, tôi phát hiện anh ta bị mù bẩm sinh. Anh có tin được không? Paul, đó cũng là lúc tôi biết rằng mình có thể tự lo liệu cho bản thân. Tôi vẫn còn có các con bên cạnh. Tôi đã vượt qua rất nhiều thăng trầm trong đời và tôi biết lần này mình cũng sẽ vượt qua được.
Ngày xưa, mẹ tôi đã một mình chăm sóc cả bảy đứa con. Tôi còn nhớ mình có thể nhìn thấy bùn đất qua lớp sàn gỗ nhà bếp. Anh tin được không, ngày đó chúng tôi thậm chí còn không có bếp lò và mẹ tôi đã phải dùng bàn ủi để nướng bánh mì. Tất cả những chuyện đó chính là bước chuẩn bị để tôi có thể đối mặt với tai ương này, Paul ạ. Gia đình đã giúp đỡ tôi rất nhiều và cả bạn bè tôi cũng vậy. Tôi cảm thấy mình rất may mắn”.
Đúng ngay lúc tôi đang bị cuốn vào vòng xoáy theo đuổi sự nghiệp và tiền bạc, những lời này của Star đã nhắc nhở tôi về những điều thật sự quan trọng trong đời. Đó là được sống. Là biết ơn cuộc đời. Là khả năng nhìn nhận xa hơn những gì chúng ta nhìn thấy bằng mắt – tầm nhìn chúng ta có được ngay từ lúc mới chào đời và vẫn mãi tồn tại trong mỗi chúng ta.
Tôi nhìn ra những gì Star đã trao tặng tôi: anh đã đồng ý để tôi giúp anh trong thời điểm khó khăn. Thời gian đó, tôi đang muốn mua một căn nhà và có nói qua với cha về chuyện này. Ông rất mừng cho tôi. Một tuần sau, tôi nhận được một lá thư từ cha, bên trong có kèm theo một tấm séc rất hào phóng, đủ để giúp tôi trả khoản tiền đặt cọc.
Suốt bao năm qua, tôi vẫn cứ muốn cha xin lỗi mình, nhưng tôi lại chưa bao giờ nhận ra tất cả những điều tốt đẹp mà cha đã làm cho tôi, đặc biệt là việc cha đã tha thứ cho thái độ hằn học, xa cách của tôi và sẵn lòng đưa tay ra giúp đỡ. Cha đã luôn ở cạnh và đỡ đần tôi. Tôi nhận ra được tất cả những điều này chính là nhờ người bạn vô gia cư tốt bụng đã tặng tôi hai chiếc đèn vào ngày đầu tiên chúng tôi gặp mặt.