Năm 1077, đại quân của Lý Thường Kiệt đại phá quân của Triệu Tiết, bao vây quân của Quách Quỳ. Tình cảnh của quân Tống đúng là cá nằm trên thớt vì đánh không được, thoái không xong. Thực vậy, trong cuốn "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam" có mô tả về tình cảnh quân Tống sau 2 lần tấn công vào phòng tuyến Như Nguyệt thất bại:
Trước mặt quân Tống, chiến tuyến của quân ta càng ngày càng trở nên vững vàng và bất khả xâm phạm. Hàng ngày, Lý Thường Kiệt cho quân sĩ khiêu khích, nhưng quân địch không dám liều lĩnh tiến công. Chúng chỉ dùng máy bắn đá từ bờ bắc bắn sang bờ nam.
Sau lưng địch, quân dân ta lại luôn luôn mở những trận quấy rối, tiêu hao quân địch. Trong cuộc kháng chiến chống Tống, các dân tộc thiểu số ở vùng núi rừng phía bắc và đông - bắc giữ một vai trò quan trọng và có nhiều cống hiến xuất sắc.. Những đội quân vùng thượng du thực chất là lực lượng vũ trang của các dân tộc thiểu số do các tù trưởng của họ chỉ huy. Trong cuộc tập kích thành Ung Châu, có những tù trưởng đã huy động gần như toàn bộ nhân dân trong vùng đi chiến đấu.
Hai tháng trôi qua. Quân Tống càng ngày càng bị tiêu hao về số lượng, và đặc biệt nghiêm trọng là càng ngày càng bị mệt mỏi, hoang mang. Tin tức thủy quân, niềm hy vọng và chờ đợi của chúng vẫn mờ mịt. Lương thực thiếu thốn, ăn uống không đủ. Thời tiết lại bắt đầu chuyển từ xuân sang hè, không thích hợp với người phương bắc. Nhà Tống đã sai chọn một số bài thuốc chữa lam chướng chế thành tễ và phái một số lương y chuyên trị bệnh lam chướng đi theo quân viễn chinh. Nhưng khí hậu ẩm thấp và các thứ bệnh nhiệt đới vẫn hoành hành quân Tống, làm cho nhiều người ốm đau và một số chết. Vua Tống lo lắng sai lập đàn cầu cúng, nhưng làm sao ngăn nổi bệnh tật?
Mệt mỏi và căng thẳng. Thế suy, lực giảm. Quân Tống bị dồn vào một tình thế khốn quẫn, tiến thoái đều khó. Tiến công thì từ hai tháng trước đây đã là cố gắng tuyệt vọng cua quân địch. Rút lui thì nhục nhã và mang tội với triều đình. Đóng quân lại chờ đợi thì thủy binh không thấy tăm hơi mà bộ binh và kỵ binh thì có nguy cơ mòn mỏi, tan rã.
Trước tình thế đó, Lý Thường Kiệt đã tung quân đánh một trận làm kiệt quệ ý chí kẻ thù. Đại việt sử lược một tác phẩm đời Trần, ghi chép trận tập kích của quân ta như sau: “Lý Thường Kiệt biết quân Tống sức lực đã khốn, đang đêm vượt sông tập kích, đại phá được quân Tống mười phần chết đến năm, sáu”
Sau đòn phản công quyết định này, quân địch thực sự bị dồn vào cảnh thế cùng lực kiệt. Nguy cơ bị tiêu diệt hoàn toàn đang chờ đợi nếu chúng vẫn ngoan cố đóng quân. Nhưng rút lui thì mết thể diện của “thiên triều”. Biết rõ ý chí xâm lược của quân thù đã bị đè bẹp, Lý Thường Kiệt liền chủ động đưa ra để nghị “giảng hòa”, thực nhất là mở ra lối thoát cho quân Tống.
Quách Quỳ ngoài miệng còn nói vớt vát: “Ta không thể đạp đổ được sào huyệt giặc (quân ta), bắt được Càn Đức (vua Lý Nhân Tông) để báo mệnh triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng”.
Tháng 3 năm 1077, quân Tống rút lui trong cảnh hỗn loạn. Quách Quỳ sợ quân ta tập kích nên bí mật cho quân lính rút vào ban đêm. Nhưng được lệnh lui quân, kẻ nào cũng chỉ mong thoát chết, nhanh chóng được trở về nước. Chúng giẫm đạp lên nhau để tranh đường đi trước.
Trên đây là những điều mà chúng ta khá quen thuộc và nhiều người biết. Nhưng điều mà chúng ta ít biết hơn là sử sách Trung Quốc bình luận gì về những thất bại này.
Tống sử chép về cuộc rút quân như sau: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn, giày xéo lên nhau” (Tống sử, truyện Đào Bật).
Các học giả nhà Tống cũng bình luận việc Quách Quỳ thua đến nơi rồi mà còn ra vẻ nói cứng như sau: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận của giặc thì lành thế nào” (Trình Di, Trình Hạo, Nhị Trình di thư, xem Tống-Lý bang giao tập lục).
Nhưng có lẽ đau buồn nhất cho Quách Quỳ là sau khi thua trận thì bị người dân Trung Quốc giễu cợt về tài cầm quân. Điển hình là truyện "mưu lược của tướng quân Quách Quỳ" trong Cổ kim tiếu sử được nhà văn Phùng Mộng Long thời cuối nhà Minh chép lại. Bộ truyện Cố kim tiếu sử được dịch ra tiếng Việt và nay xin ghi lại hầu quý độc giả:
"Quách Quỳ được lệnh xâm phạm Giao Châu. Quân đội kéo đi không có kỷ luật gì cả. Từ cách xếp đặt cho tới việc làm có nhiều điều thật buồn cười.
Đến ngày quân đội lên đường, mới thấy giao cho tướng dưới quyền một bản văn lớn như bức tranh gồm tất cả những hướng dẫn, mệnh lệnh của chủ tướng. Từ hình vẽ cho tới chữ viết đều nhỏ li ti, các đề mục thì rắc rối, khó hiểu. Lại không quên cảnh cáo các tướng không được để lộ ra ngoài. Các tướng phải ghé sát vào đèn xem cho rõ...
Ghi chép nhiều, đọc 3 ngày 3 đêm mới hết nhưng trong đó có một đoạn như thế này: "Điều thứ nhất, người Giao châu rất hay cưỡi voi. Voi sợ tiếng kêu của lợn. Theo đó, các đơn vị phải nuôi thật nhiều lợn. Mỗi khi thấy voi đi tới, lấy dùi nhọn mà đâm vào lợn. Lợn kêu to, voi tự nhiên sẽ tháo lui"...
Dĩ nhiên thì làm gì có chuyện voi sợ lợn kêu và cũng chưa thấy đâu khác chép cách đuổi voi bằng lợn cả. Có chăng câu chuyện tiếu lâm này mỉa mai về tài cầm quân, về mưu lược của Quách Quỳ sau khi thất bại trước Lý Thường Kiệt. Nhưng một mặt nào đó, qua câu chuyện này chúng ta thấy được người phương Bắc rất kiêng dè với tượng binh của Đại Việt và không nghĩ ra cách đối phó hữu hiệu.
Một điểm nữa có thể nhận ra từ câu chuyện tiếu lâm trên là cách chễ giễu quân Tống không có kỷ cương khi hành quân xuống phương Nam nên có thể xảy ra chuyện bắt lợn của dân. Có lẽ vì thế nên dân gian mới nói mỉa việc quân Tống đi gom lợn là theo lệnh của Quách Quỳ để đối phó với tượng binh của người Việt.
Bản thân Quách Quỳ cũng chẳng có hậu vận tốt sau khi cầm quân sang gây chiến với quân ta. Sau khi dẫn bại binh về nước. Quỳ bị quy tội vì đã trì hoãn không chịu tiến binh. Kể cũng oan cho Quỳ vì lúc đó Quỳ đã vài lần tiến binh nhưng bị đánh bật lại nên mới phải đóng quân phía Bắc sông Như Nguyệt để chờ viện binh. Chứ nếu Quỳ mà cứ tiến binh thì e rằng quân Tống chẳng còn ai quay về.
Tiếp đó, Quỳ bị đổi đi Ngạc Châu, rồi giáng làm tả vệ tướng quân và an trí ở Tây Kinh. Gọi là an trí nhưng thật ra là bị quản thúc, cư tại gia khoảng 10 năm, đó là cách vua thời xưa xử phạt những quan tướng bất tài. Đến khi Tống Triết Tông lên ngôi (năm 1086) Quỳ lại được phục chức làm tri Lộ Châu, Quảng Châu quan sát sử, tri Hà Trung. Năm Nguyên Hựu thứ ba (1088) ốm chết, thọ 68 tuổi. Vậy mà trải qua cả nghìn năm, câu chuyện "mưu lược của tướng quân Quách Quỳ" đầy tính chế giễu vẫn được nhớ tới.
Anh Tú (theo "Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử Việt Nam" và "Cổ kim tiếu sử)