Trong sử thi hay thần thoại của loài người, chúng ta thường hay thấy những câu chuyện liên quan đến hiến tế mạng người sống. Trong thần thoại Hy Lạp, vua Agamemnon quyết định hy sinh con gái Iphigenia của mình cho nữ thần Artemis để trả công cho việc giúp hạm đội Hy Lạp chinh phục thành Troy. Trong sách Sáng thế ký, Abraham suýt hy sinh con trai mình là Isaac cho Đức Chúa trời.
Chuyện hiến tế xa xưa tại Trung Quốc
Nhưng tục hiến tế của con người không chỉ đơn thuần là những thứ trong truyền thuyết, nó cũng không chỉ có ở phương Tây mà có cả ở phương Đông. Sử ký của Tư Mã Thiên cũng kể về hình thức hiến tế cổ xưa thời Chiến Quốc trong phần Hoạt kê liệt truyện kể về Tây Môn Báo: “Thời Ngụy Văn Hầu, Tây Môn Báo làm huyện lệnh ở ấp Nghiệp. Báo đến ấp Nghiệp gặp các trưởng lão hỏi dân tình khổ sở vì điều gì? Các vị trưởng lão nói: Khổ vì chuyện Hà Bá lấy vợ nên dân nghèo.
Báo hỏi tại sao, họ đáp: Quan tam lão và những người thuộc lại mỗi năm thu thuế trăm họ được mấy trăm vạn, lấy ra hai ba mươi vạn để cưới vợ cho Hà Bá. Còn bao nhiêu thì giao cho ông đồng bà cốt chia nhau mang về. Đến lúc ấy, bọn bà cốt đi thấy nhà nào có con gái đẹp thì nói nên gả cho Hà Bá và đem đồ sính lễ đến cưới. Họ tắm rửa cho cô ta xong, lấy the lụa mặc cho cô ta, cho ở một mình, ăn chay, dựng nhà trai cung ở trên bờ sông Hoàng Hà, bày cờ đỏ màn the, cho người con gái sống ở trong cung.
Cô ta có đủ thịt bò, rượu, cơm. Làm như thế hơn mười ngày. Sau đó lại đánh phấn tô điểm cho cô ta, chuẩn bị giường chiếu như cô dâu thật, để cô gái trên giường cho trôi ở trên sông Hoàng Hà. Lúc đầu còn trôi ở trên mặt nước, đi đến mấy dặm rồi mới chìm. Nhà nào có con gái đẹp cũng rất sợ ông đồng bà cốt bắt gả cho Hà Bá. Cho nên nhiều người mang con gái trốn đi nơi xa. Vì thế trong thành vắng tanh không người, lại càng đói kém. Tục này đã có từ lâu. Dân gian có câu tục ngữ tương truyền: “Nếu không lấy vợ cho Hà Bá thì nước dâng lên chết hết dân”.
Ghi chép từ Sử ký đã cho thấy đến thời Tư Mã Thiên sống (thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên) thì người ta đã ý thức được việc hiến tế là những hủ tục. Sau này tiểu thuyết gia thời Minh là Ngô Thừa Ân viết Tây du ký lấy bối cảnh nhà Đường cũng có lần nhắc chuyện hiến tế liên quan đến Hà Bá.
Hồi 47 tả khi thầy trò nhà Tôn Ngộ Không đi đến sông Thông Thiên thì dừng nghỉ ở Trần Gia Trang và phải chứng kiến nhà này khóc lóc chuẩn bị mang một bé trai và một bé gái đem đi hiến tế cho Linh Cảm đại vương.
"Hành Giả hỏi: Xin cụ nói rõ thế nào là Linh cảm?
Hai cụ già (Trần Trừng và Trần Thanh) đều sa nước mắt, nói: Các ngài ơi, đại vương ấy:
Cảm ứng một phương xây miếu vũ,
Uy linh nghìn dặm giúp dân tình.
Quanh năm đồng ruộng rơi mưa ngọt.
Suốt tháng thôn cư rợp ráng vàng.
Hành Giả nói: Mưa ngọt, ráng vàng thì tốt quá, tại sao các cụ lại còn buồn rầu phiền não?
Cụ già giậm chân vỗ ngực, hừ một tiếng, nói: Các ngài ơi!
Tuy đội ơn sâu thành oán nặng,
Từ tâm mà lại hóa vô nhân.
Trẻ con nộp mạng ngài ăn thịt,
Chẳng phải chiêu chương chính trực thần!
Hành Giả nói: Đòi ăn thịt trẻ con trai gái à?
Cụ già nói: Thưa vâng.
Hành Giả hỏi: Chắc lần này đến lượt nhà cụ?
Cụ già nói: Năm nay đến lượt nhà tôi. Nơi chúng tôi đây có khoảng trăm gia đình cư trú, thuộc sự cai quản của huyện Nguyên Hội, nước Xa Trì, tên gọi Trần gia trang. Vị đại vương này một năm một lần tế, phải dâng cho ngài ấy một đứa bé trai, một đứa bé gái, cả lợn, dê, rượu, ngài ấy xơi một bữa no, rồi phù hộ cho chúng tôi mưa thuận gió hòa. Nếu không tế như thế, thì gieo tai giáng họa ngay”.
Cảnh hiến tế được tả ở hồi 48 thế này:
“Người thôn Trần Gia Trang khiêng đồ cúng tế dê, lợn, rượu cùng Hành Giả, Bát Giới rầm rầm, rộ rộ tới bày trong miếu Linh Cảm. Hai đưa trẻ trai và gái được đặt lên trên cùng. Hành Giả ngoảnh đầu nhìn thấy trên bàn thờ bày hương hoa đèn nến chính giữa đặt một cỗ bài vị chữ vàng, trên có dòng chữ “Thần Linh Cảm đại vương”, ngoài ra không có một tượng thần nào khác. Mọi người bày biện xong xuôi, đoạn quay mặt vào miếu dập đầu khấn rắng:
- Tâu đại vương, năm này, tháng này, ngày này, giờ này, tế chủ Trần Gia Trang là Trần Trừng cùng mọi người lớn bé, già trẻ kính tuân lệ thường, xin hiến một bé trai tên là Trần Quan Bảo, một bé gái tên là Nhất Xứng Kim, cùng lợn, dê, rượu đủ số, dâng đại vương hưởng dùng để phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt”.
Chúng ta để ý chút thì thấy Ngô Thừa Ân đã khéo léo đặt tên sông là Thông Thiên tức là thông lên trời và Linh cảm là Lay động thần linh. Cách dùng danh từ riêng Thông Thiên và Linh Cảm đã mô tả việc hiến tế này nhằm làm cảm động trời đất để làm mưa thuận gió hòa.
Vì sao việc hiến tế trong Sử ký hay Tây du ký đều liên quan đến thần sông? Bởi thời xa xưa, lũ lụt là nỗi lo lớn nhất ở các vùng đất canh tác nông nghiệp. Không có nước hay nước nhiều quá thì cũng phá hủy sản xuất gây ra nạn đói nên người ta chỉ biết mê muội hiến tế sinh mạng để cầu mưa thuận gió hòa với giải thích ngây ngô là Hà Bá cần người cưới vợ hay "kinh dị" hơn là ăn thịt. Tuy nhiên, dẫu sao dù từ tác phẩm hư cấu Tây du ký hay tác phẩm lịch sử là Sử ký thì vẫn chỉ là ghi chép. Để làm rõ hơn thì cần có các bằng chứng khảo cổ.
Đi tìm bằng chứng khảo cổ
Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy bằng chứng về nó tại các địa điểm trên toàn cầu. Các hố hiến tế rải rác trên địa điểm Ân Khư, kinh đô cuối cùng của triều đại nhà Thương (Trung Quốc) là một ví dụ đáng chú ý. Triều đại sớm nhất của Trung Quốc để lại một hồ sơ khảo cổ học, thời đại nhà Thương kéo dài từ khoảng năm 1.600 trước Công nguyên đến năm 1.000 trước Công nguyên. Các nhà khoa học ước tính hơn 13.000 người đã bị hiến tế tại Ân Khư trong khoảng thời gian khoảng 200 năm, với mỗi nghi lễ hiến tế trung bình có 50 nạn nhân là con người.
Nghiên cứu gần đây đang đào sâu kiến thức khảo cổ học về thực hành hiến tế trong lịch sử. Công việc này, thường sử dụng các kỹ thuật từ các lĩnh vực bên ngoài khảo cổ học truyền thống, đang cung cấp những hiểu biết mới về các nạn nhân - họ đến từ đâu, họ đóng vai trò gì trong xã hội, họ sống như thế nào trước khi bị hiến tế và tại sao họ lại bị chọn làm nạn nhân.
Đồng thời, những phát hiện này có thể giúp trả lời một cách chắc chắn những câu hỏi cơ bản hơn về các chức năng mà vật hiến tế phục vụ và bản chất của các xã hội thực hiện chúng.
Nhà khảo cổ học Glenn Schwartz của Đại học Johns Hopkins cho biết, hiến tế chắc chắn đóng vai trò quan trọng trong các vấn đề của con người trong lịch sử cổ đại, nhưng những nghi lễ đẫm máu này đã tỏ ra khó nghiên cứu.
Schwartz nói: “Khảo cổ học liên quan đến việc phân tích các tàn tích của hoạt động con người còn sót lại và nếu chúng ta đang nói về các vấn đề tôn giáo như niềm tin vào vũ trụ và siêu nhiên, làm thế nào để ta suy ra những điều đó từ các vật thể thu lượm được? Đối với các nhà khảo cổ học, nghiên cứu các vấn đề kinh tế hoặc chính trị của các xã hội trong quá khứ dễ dàng hơn nhiều so với nghiên cứu những gì người xưa có thể đã tin về thế giới siêu nhiên và tại sao họ lại làm thế trong bối cảnh tôn giáo.
Giờ đây, nhiều kỹ thuật mới đang giúp việc nghiên cứu sâu vật hiến tế ngày càng dễ dàng hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực khảo cổ sinh học, nghiên cứu hài cốt người và động vật”
Chẳng hạn, trong một phân tích năm 2017 về các đồng vị carbon, nitơ và lưu huỳnh trong xương người được tìm thấy ở một nghĩa trang ở Ân Khư, nhà khảo cổ sinh học Christina Cheung tại Đại học Simon Fraser ở Burnaby (Canada) và các đồng nghiệp đã phát hiện ra rằng những vật hiến tế có thể đến từ kinh đô nhà Ân.
Phát hiện ở Ân Khư đã bổ trợ thông tin cho các ghi chép trên “giáp cốt văn” – loại chữ viết sớm nhất được biết đến ở Trung Quốc, thường liên quan đến việc các nhà tiên tri khắc các câu hỏi trên mai rùa hoặc xương bò. Những dòng chữ này gợi ý rằng nhiều nạn nhân bị hiến tế là tù binh nước khác bị bắt giữ trong các cuộc chiến tranh với nhà Thương. Đồng thời, phân tích đồng vị đã bổ sung thêm bằng chứng hiện vật để chứng minh giả thuyết đó. Nó cũng tiết lộ rằng những người bị bắt có thể đã bị giam giữ ở Ân Khu trong nhiều năm trước khi bị đem hiến tế.
Vậy những người bị hiến tế ở Trung Quốc thời cổ đại xưa đã có cuộc sống như thế nào trước khi từ giã cõi đời? Căn cứ theo lời trong Sử ký thì cuộc sống 10 ngày cuối khá tốt với “đủ thịt bò, rượu cơm”. Theo lời kể của Ngô Thừa Ân thì “Trẻ con nào có biết sống chết gì đâu, nhét đầy hai tay áo hoa quả, nhảy nhót múa may vừa ăn vừa đùa” cho thấy nạn nhân trước khi nạp mạng được đối xử khá tử tế.
Trong khi đó, Cheung và các đồng nghiệp cho rằng những người bị bắt làm nô lệ mà không còn khả năng lao động sẽ trở thành nạn nhân của hiến tế khi việc giam giữ họ không mang lại giá trị gì. Phải chăng tùy hình thức hiến tế mà nạn nhân bị đối xử theo cách khác nhau.
Tuy nhiên, Cheung cũng thừa nhận: “Khảo cổ học ngày càng trở nên liên ngành hơn, ngày càng kết hợp nhiều kỹ thuật từ các ngành khoa học khác cho phép chúng ta nhìn vào quá khứ với mức độ chi tiết và chính xác hoàn toàn mới". Do vậy, việc dựa vào ghi chép từ lịch sử và văn hóa dân gian cũng giúp củng cố những suy luận mà không có bằng chứng khảo cổ.
Thực ra, các nhà khoa học cũng đang khám phá những chi tiết mới về cuộc sống cuối đời của các nạn nhân hiến tế.
Vào năm 2013, nhà khảo cổ học Andrew Wilson tại Đại học Bradford ở Vương quốc Anh và các đồng nghiệp đã điều tra ba xác ướp khoảng 500 năm tuổi được phát hiện gần đỉnh đóng băng của núi lửa Llullaillaco ở Argentina. Những nạn nhân ở độ tuổi từ 4 đến 13 được chôn cất riêng biệt trong tập tục hiến tế trẻ em của người Inca.
Các phân tích hóa học về tóc trên da đầu của các xác ướp trẻ em tiết lộ rằng chúng đã được cung cấp lượng lá coca và men ngô (bắp) ngày càng tăng trong thời gian gần qua đời. Thậm chí, người lớn tuổi nhất, được mệnh danh là “Thiếu nữ Llullaillaco” còn có lá coca giữa hai hàm răng nghiến chặt. Những phát hiện này, cùng với nghiên cứu trước đây cho thấy rằng họ ăn nhiều thịt và ngô hơn trong năm cuối đời, tiết lộ rằng người Inca có thể đã cho các nạn nhân được sống khá no đủ trước ngày bị hiến tế.
Tuy nhiên, những nạn nhân bị hiến tế khác phải chịu đựng cảnh sống đạm bạc hơn và kết thúc buồn thảm hơn. Trong số những người Maya bị hiến tế thì các chi tiết giải phẫu như số lượng lỗ sâu trên răng cho thấy nạn nhân thường không được sống đầy đủ trước khi mất mạng.