Chiều nay 9.10, mở phây (Facebook) ra, thấy ngay thông báo của bậc đàn anh Nguyễn Khắc Nhượng, hé cái tin sét đánh: Thi sĩ Du Tử Lê nhiều người yêu quý đã rời cõi tạm. Một cái thông báo buồn như trời đất đang đổ mưa giữa phố Sài Gòn.
Tôi vội vào trang của phu nhân nhà thơ, chị Hạnh Tuyền (trên phây là Tuyen Phan), gặp ngay bức ảnh bác Lê đứng giữa, hai đứa cháu hai bên, với vài từ ngắn gọn mà cực kỳ đau xót: "Ông Ngoại lên trời rồi". Mở thêm nguồn thì biết rằng: Thi sĩ Du Tử Lê qua đời lúc 8 giờ 06 tối thứ hai, 7 tháng 10, tại tư gia ở Garden Grove (Mỹ), hưởng thọ 77 tuổi. Theo múi giờ lệch, vậy thì lúc ấy đất Việt quê ông đã sang ngày thứ ba 9.10.2019, buổi sáng.
Chả biết làm gì hơn, lẩn mẩn nhớ lại những gì mình đã biên vụng về trước con người cao vọi ấy.
Tên tuổi bác Lê, tôi biết đã lâu nhưng chả bao giờ nghĩ có thể, có dịp nào gặp, chứ đừng nói được trò chuyện,với một người mà mình hằng ngưỡng mộ.
Anh Nguyễn Thế Khải nhắn tin cho tôi, tối mai (12.12.2017) thu xếp được thì nhớ ghé nhà hàng L.M trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3, anh làm cái tiệc nhỏ mừng sinh nhật anh Nhượng tròn 70, chú nhớ đến nhé. Cuối tin, anh ngoặc vào cái phần sốt dẻo, có lẽ anh biết tôi sẽ không thể bỏ qua: Có nhà thơ Du Tử Lê cùng dự. Đây giống như phần tái bút, sực nhớ hoặc tiện thể viết thêm nhưng lại là phần quan trọng nhất của bức thư.
Anh Khải là nhà doanh nghiệp nổi tiếng, Tổng giám đốc Công ty Du lịch Hoàn Mỹ, bạn đồng nghiệp cũ thời chúng tôi còn dạy học. Ở xứ này có hàng nghìn đơn vị kinh doanh du lịch, không ít những ông lớn như Saigontourist hoặc Vietravel đông cả nghìn cán bộ nhân viên, không nơi đâu không có mặt, nhưng nói đến du lịch Mỹ, tổ chức cho khách đi Mỹ thì tất cả phải xếp sau Hoàn Mỹ. Chẳng biết có phải cái tên nó vận vào sự nghiệp, hay thầy giáo Nguyễn Thế Khải lúc lương giáo viên ba cọc ba đồng chết đói không cầm cự nổi trên bục giảng đã bung ra xé rào, từ bỏ biên chế để liều dấn mình vào chốn kinh tế thị trường, có ý định gì cho tương lai, có hình dung ra ngày sinh sắc hanh thông vận hội như thế này. Nhưng đúng cái tên Hoàn Mỹ đã chứa đựng sự chuẩn mực, hoàn thiện, đầy đủ, hài lòng, hết ý, thậm chí trên cả tuyệt vời của một doanh nghiệp du lịch sừng sỏ chuyên tour Mỹ (và Canada).
Thậm chí có những đối tác Mỹ từng lên tiếng rằng, làm ăn với ai thì chúng tôi còn ngập ngừng, chứ với ông Khải là OK không phải chần chừ. Hồ sơ của người Việt đem tới Tổng lãnh sự quán Mỹ, Đại sứ quán Mỹ, hoặc các cơ quan xét nhập cảnh, di trú Mỹ ở Việt Nam, chả nói ra ai cũng biết, khó không khác gì tìm đường lên giời, nhận được xác nhận visa của Mỹ là cả một thắng lợi mang tính lịch sử. Thế mà ông Nguyễn Thế Khải và Công ty Hoàn Mỹ đã tạo dựng được niềm tin, sự tin cậy đến mức, hồ sơ do công ty ông Khải đem tới là yên tâm.
Tất nhiên không phải không có trường hợp bị knock-out, tuy nhiên Hoàn Mỹ đã chọn trường hợp nào để duyệt thì phần còn lại của đương sự chỉ là chuẩn bị tiền bạc mà lên đường vi vu thăm thú nước Mỹ cho thỏa chí. Tôi đùa bảo với anh Khải, tạo được niềm tin của người Mỹ như ông không phải ai cũng làm được, nhất là trong thời buổi kinh doanh chụp giật, nhắm mắt chạy theo đồng tiền này. Ông Khải cười, hơn chứ.
Hai anh em đang trò chuyện đợi khách, tôi nhác thấy vài ba dáng điệu bước vào. Thoạt cái nhìn đầu tiên, tôi nhận ra bác Du Tử Lê dù đây là lần diện kiến thứ nhất (bởi cũng già cả rồi, chả biết có còn gặp gỡ, trò chuyện, nắm tay nhau những thứ nhì thứ ba thứ tư thứ n nữa không). Đọc thơ Du Tử Lê trên mạng điện tử, coi những tấm hình đi kèm, người ảo người thật giờ so sánh chả lẫn đi đâu được.
Bác Lê đi cùng bà xã, cả hai thật hiền lành, nhỏ nhẹ và sang trọng. Cái cốt cách của một nhà thơ, một trí thức nổi tiếng ở Sài Gòn trước 1975, một con người văn chương, hiểu đời hiểu người, khiêm tốn cứ toát ra qua từng ánh mắt, cử chỉ. Xứ ta từng có những thế hệ con người tử tế, chững chạc, đáng kính như vậy, bất kể từ phía nào. Đấy là những con người đã vượt lên trên sự tầm thường, xô bồ, vụn vặt của cuộc đời bị chi phối bởi những tư tưởng, học thuyết quái dị.
Như đã nói ở đầu bài, tôi biết Du Tử Lê, thực ra là thơ Du Tử Lê, từ khá lâu. Năm 1974, đám sinh viên khoa Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội, mặc dù được coi là đối tượng chuyên về văn chương nhưng cũng chỉ đọc thơ văn của chính quyền miền Nam qua những tư liệu hạn chế. Người ta bảo đó là văn học tàn dư cấm phổ biến, truyền bá, cấm lưu hành. Có những dòng mạch ít ỏi đưa ra ngoài Bắc chủ yếu để cho các nhà nghiên cứu đọc nhằm chê bai, lên án.
Không biết theo ngả nào đường nào, nhưng phòng tư liệu của khoa Văn có một số tác phẩm do các nhà văn nhà thơ miền Nam sáng tác, như văn của Vũ Bằng, Nhất Linh, Nguyễn Thị Hoàng, Nhã Ca, Võ Phiến, Nguyễn Mộng Giác, Thích Nhất Hạnh, thơ của Bùi Giáng, Đinh Hùng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa, Lam Vị Thủy, và cả Du Tử Lê. Phòng tư liệu do các thầy Phan Ngọc, Cao Xuân Hạo coi sóc. Các thầy bị kết án tham gia phong trào Nhân văn Giai phẩm nên bị cấm dạy, chính quyền chỉ cho làm tư liệu, dịch tài liệu. Khi sinh viên bắt đầu làm luận văn thì được cấp cái thẻ vào đọc hạn chế ở phòng tư liệu, đại loại được tiếp xúc với những thứ bị cấm.
Tôi thích thơ Nguyên Sa (Trần Bích Lan), thơ ông dịu dàng như lòng người thiếu nữ. Nó cứ thoảng qua rồi để lại những sâu đậm trong tâm hồn. Nhưng anh cùng học với tôi, anh Bùi Trọng Cường, khi sinh viên đã có nhiều thơ đăng trên báo Văn Nghệ, Tổ Quốc, Hà Nội Mới, cả báo Nhân Dân nữa, thì thích thơ Du Tử Lê. Anh bảo thơ ông Lê đọc chát chúa đau đớn lắm, nó vò xé lòng ta qua những day dứt rất đời thường.
Anh cầm cuốn Thơ Du Tử Lê quay roneo chữ nhòe nhoẹt, đọc cho tôi nghe nhiều bài, có những câu như “phải em, rồi như sương/tan theo ngày nắng vội/phải em, rồi như mây/chìm theo vùng bóng tối/phải em, rồi như mưa/chảy trôi ngoài hiên, mở”, hoặc “như con chim bói cá/trên cọc nhọn trăm năm/tôi tìm đời đánh mất/trong vụng nước cuộc đời”… dần dần tôi cũng bị lây cái say của anh Cường, thích Du Tử Lê. Anh Cường còn bảo, tao thích Du Tử Lê bởi cái bút danh của ông ấy, một kẻ du tử lang thang vô định giữa chốn đời đầy giông bão, chết chóc.
Bây giờ thì không phải là ước mơ, kháo khát nữa, tôi đang ngồi bên ông, rụt rè nắm bàn tay ông, bàn tay cái người đã viết những vần thơ đau đớn về một thời chiến tranh sinh ly tử biệt, về tâm hồn rạn vỡ. Ông hiền hậu, ít nói, chuyện trò thủ thỉ thù thì, như người anh lâu lắm vừa về gặp lại những đứa em xa. Mắt ông thật hiền, nheo nheo của người già, cũng là cái nheo tươi trẻ, láu lỉnh của thời trai. Ông hỏi tôi về những tháng năm chúng tôi đã sống, ông ngậm ngùi sao mà con người ta số kiếp khổ thế. Bản nhạc Pháp về tình yêu và cuộc sống âm vang nhẹ nhàng thoáng được thoáng mất. Ông nắm chặt tay tôi, truyền cái ấm nóng của bậc đàn anh đã đi gần trọn kiếp người.
Ngồi bên Du Tử Lê, bất giác tôi nhớ một bậc đàn anh khác, từng ngược chiến tuyến với ông Lê, là bác Nguyễn Duy. Ôi, hai ông anh từng có thời cầm súng chĩa vào nhau, sao tâm hồn đều đẹp, trong trẻo dịu dàng là vậy. Hôm tôi ốm, nửa đêm cục điện thoại kêu tít tít, tôi cứ nghĩ tin nhắn rác của nhà mạng, vả lại mình đang mệt ngáp ngáp nên cũng ngại mở máy. Sang hôm sau đọc, thi sĩ xứ Thanh nhắn rằng (nguyên văn): “Đọc fây biết cụ (Lý) Thông ốm, xin gửi nhời vấn an. Mong cụ đừng ngoẻo, mau lành, tiếp tục fây dữ dội cho dân làng thưởng thức. Hôm nào khỏe lại, báo tin nhé, để mời cụ chén rượu quê danh tiếng. Nguyễn Duy”. Đọc xong tỉnh hẳn, khỏe hẳn, như được truyền dòng sinh lực vô hình.
Những bậc đàn anh, người giản dị giữa đời thường, bao giờ cũng đối xử với bạn bè, đàn em bằng tấm lòng yêu thương trìu mến như vậy. Cũng như tôi đang ngồi sát đàn anh Du Tử Lê đây, nghe những thủ thỉ thù thì tâm sự. Ngày mai bác lại rẽ mây về bên Mỹ, chỉ mong sớm có dịp nắm tay nhau.
Chập chờn mùa Giáng sinh, tối 12.12.2017
Nguyễn Thông