LTS. Cách nay bảy năm, nhà thơ Du Tử Lê lần đầu gặp nhà thơ Phan Vũ tại Sài Gòn. Ngồi với nhau trong quán cà phê của gia đình cố nhà báo Lý Quý Chung trên đường Hai Bà Trưng, Phan Vũ đã đọc thơ của mình cho Du Tử Lê nghe, kể những thời đoạn ông gặp sóng gió trên văn đàn, và cung cấp bản chung quyết bài thơ Hà Nội phố cho Du Tử Lê. Một phần kỷ niệm ấy, Du Tử Lê đã ghi chép lại trong một tùy bút dài, với nhiều cảm xúc chung - riêng về Phan Vũ và ký ức Hà Nội.
Ngày 17.7 nghe tin Phan Vũ qua đời, từ Mỹ, Du Tử Lê đã gửi gắm tùy bút đó đến Người Đô Thị và cho phép chúng tôi trích đăng, để độc giả có thêm góc nhìn đa chiều về một trong những thi phẩm nổi tiếng - Hà Nội phố- của “một trong những tác giả hiện thân của nhân cách thi sĩ, làm nên giá trị tác phẩm”, như Du Tử Lê nhận định.
Phan Vũ và Du Tử Lê trong lần gặp đầu tiên tại Sài Gòn, ngày 2.3.2012. Ảnh: HT
Buổi trưa nồng bụi. Thành phố phồng, rộp theo những cơn nắng châm chích trên từng tấc thịt, da; tuồng đã bị nấu nhừ, nung chín. Tôi lẽo đẽo theo chân Hà Quang Minh. Những đoạn đường phải, trái ngắn. Những ngọn cây già, mốc, không có nổi cho chính nó, chút bóng mát liu điu.
Minh mở cửa. Quán vắng, âm âm, chia khu. Những chiếc ghế bành đợi khách. Tôi đợi một người. Đợi tác giả Hà Nội phố. Đợi Phan Vũ. Một người tôi không quen. Một tên gọi chỉ mới gần đây, dấy lên trong tôi, một điều gì, như muốn nói với ông, lời cảm ơn. Mọi chuyện khởi đi từ P.Kim ở Seattle, khi Kim gửi cho tôi qua không gian ảo, ca khúc Em ơi, Hà Nội phố. Như thường lệ, ca khúc chỉ có tên nhạc sĩ. Nhạc sĩ Phú Quang.
Không hiểu từ đâu, nguyên do nào, sau khi nghe tới lần thứ ba, câu hỏi “Tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân” và, thú nhận chua xót, như một tuyệt vọng tâm thế: “Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố / bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường” đã như những ngón tay hồ nghi, chỉ tôi về một hướng khác. Hướng thi ca...
Qua tra cứu, tôi “gặp”... Phan Vũ. Tôi ở với tiếng thơ của ông, như ở với niềm hoan lạc mà chữ và, nghĩa, hình ảnh và, giai điệu đã bất ngờ mang đến cho tôi. Dù trong ký ức tôi, không hề có một Hà Nội với:
“Ta còn em mùi hoàng lan
Ta còn em mùi hoa sữa
Con đường vắng rì rào cơn mưa nhỏ
Ai đó chờ ai tóc xõa vai mềm...”
Hay:
“Ta còn em hàng phố cũ rêu phong
Và từng mái ngói xô nghiêng
Nao nao kỷ niệm
Chiều Hồ Tây lao xao hoài con sóng
Chợt hoàng hôn về tự bao giờ?”
Hà Nội của tôi trước 1954, là những cây sấu trên đường Hàm Long. Rặng liễu vây quanh hồ Thiền Quang! (Thời gian đó, được biết nhiều dưới tên hồ Halais - trên đường Rue Halais - trước khi được đổi thành Nguyễn Du).
Hà Nội của tôi, trước 1954 là những cây bàng lá đỏ. Sân trường Hàng Vôi. Những chuyến tầu điện leng keng từ trung tâm thành phố, về Chợ Hôm. Hồ Hoàn Kiếm với ông Tầu bán “phá sa”. Đền Ngọc Sơn. Nhà Thủy Tạ... Nơi tuổi thơ tôi trải qua với nhiều câu hỏi không giải đáp.
Những câu hỏi rùa thần hay tháp bút? Những sớm mai, những chiều sương, mây mù dệt lụa mặt hồ, tôi trông chờ thần Kim Quy nổi lên, cùng kiếm báu ngậm ngang miệng... Tôi cũng từng được dẫn đi chơi Hồ Tây, ăn bánh tôm. Nhưng chưa bao giờ tôi có cho mình câu hỏi (nỗi buồn hoang lạnh?) “chợt hoàng hôn về tự bao giờ”... Tuy nhiên, bài thơ/ca khúc đã nhói buốt cho tôi một Hà Nội khác. Hà Nội của “tiếng dương cầm trong căn nhà đổ”. Hà Nội của “từng mái ngói xô nghiêng”…
Cuối cùng, cửa mở. Tôi không biết người đàn ông vẫn lực lưỡng ở tuổi ngoài tám mươi đã mang theo ông cái nóng rộp da? Hay chính cái nóng châm chích đã đẩy ông ào vào? Chỉ biết, cảm nhận đầu tiên của tôi về tác giả Hà Nội phố tựa như sự ngỡ ngàng trước một Từ Hải râu ria, bậm trợn, bước ra từ Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du. Hay, một Alexis Zorba, nhân vật của Nikos Kazantzakis trong Zorba the Greek vì tính hồn nhiên, quyến rũ mạnh mẽ của ông.
Tôi cũng không biết cái ngoại hình vạm vỡ của tác giả bài thơ Hà Nội phố đã làm đầy, làm chật quán cà phê giữa trưa; ghế, bàn ít phút trước, còn bâng khuâng chờ khách? Hay giọng nói sang sảng, câu chuyện, tiếng cười, giọng đọc thơ rất Hà Nội của ông, đã lấp đầy mọi khu vực? Chỉ biết, cuối cùng tôi đã gặp người tôi muốn ngỏ lời cám ơn. Nhà thơ, họa sĩ, kịch sĩ, đạo diễn Phan Vũ.
Chỉ biết, rất nhậm lẹ, hồn nhiên, tác giả Hà Nội Phố đã như một cơn lốc quyến rũ bạo liệt, cuốn tất cả chúng tôi dạt trôi ngược, xuôi, cao, thấp theo những lênh đênh của định mệnh bài thơ (như định mệnh tình cảm đời ông?) khởi tự những ngày chia đôi đất nước.
Nhà thơ, họa sĩ, nhà viết kịch, đạo diễn Phan Vũ (1929 - 2019). Ảnh: TLGĐ
Tôi vẫn nghĩ, mỗi tác phẩm, nhất là những tác phẩm lớn, tự thân vốn có cho riêng nó một đường bay, trước ngỡ ngàng tác giả. Cũng thế, trường hợp của Phan Vũ với Hà Nội phố. Nhờ giáp mặt để nói lời cám ơn, tôi mới biết, bài thơ không chỉ có 21 câu, như ca khúc đã phổ biến. Mà, Hà Nội phố là một trường khúc, dài 443 câu, phân bổ cho 24 đoạn. Mỗi đoạn, theo tôi, là một game màu, một mảnh puzzo, khi ráp lại, thành toàn cảnh Hà Nội tháng 12 năm 1972.
Ngày họ Phan sinh đẻ Hà Nội phố, ông đã bước khá sâu qua tuổi 40. Không biết có phải vì đã bước khá sâu vào tuổi “tri thiên mệnh” hay không mà, người đầu tiên họ Phan cho chiêm ngưỡng dung nhan đứa con tinh thần ngoại khổ của mình, là Xuân Diệu. Phan Vũ kể, sau khi đọc bản thảo Hà Nội phố, “ông hoàng thơ tình” thời tiền chiến, nói, muốn sống hãy giấu ngay. Không phổ biến!...
Khi nhắn nhủ tác giả Hà Nội phố, có dễ Xuân Diệu đã quên (hay không biết) rằng, Phan Vũ cũng là một thành viên nhóm Nhân Văn! Nếu Nhân Văn không bị đình bản sau khi đã phát hành được 5 số, thì Nhân Văn số, 6, đã có thơ…Phan Vũ! Trường hợp này, nhiều phần, Phan Vũ sẽ phải chịu chung số phận với các bạn văn của ông thời đó. Như Phùng Quán, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm… Và, cũng nhiều phần, thi ca, âm nhạc Việt, sẽ không thể có một Hà Nội phố.
Nói cách khác, theo tôi, đấy là bước khởi đầu định mệnh “lên bờ, xuống ruộng” của bài thơ này vậy.
Tôi không biết những người cùng tôi (luôn bàn ghế, ngôi quán, cái nóng, con đường, thành phố xế chiều) nghe “Alexis Zorba” Phan Vũ đọc trường khúc Hà Nội phố của ông, nghĩ gì, cảm gì? Riêng tôi có bất ngờ to lớn, là sự kiện ông cho biết, bài thơ được viết vào tháng 12 năm 1972. Khi Hà Nội trân mình chịu đựng những đợt B-52, ném bom. Trải thảm. Tiết lộ của tác giả, chỉ như một chú giải hoàn cảnh ra đời đứa con tinh thần của mình. Nhưng với tôi, vô tình ấy, lại như khối lửa và, thất thanh tiếng sét, thình lình xé toang bóng tối bưng bít, hiển lộ ký ức bài thơ (đoạn trường tác giả).
Tôi muốn nhấn mạnh hai chữ “ký ức”, vì ký ức tôi không có Hà Nội 1972. Bài thơ cho tôi những hình ảnh tương phản ngột ngạt, giữa một Hà Nội thanh bình xưa và, hình ảnh một Hà Nội sơ tán. Một Hà Nội trống hoác. Một Hà Nội chết nghẹn. Một Hà Nội chín, nẫu hoang vu.
“Cơn mưa đầy
Những hố sâu trước cửa
Chiếc thuyền giấy lang thang
Không bến đỗ…
(…)
“Ta còn em cánh cửa sắt
“Lâu ngày không mở.
“Nhà ai?...”
Ký ức tôi vẫn xanh thẫm một Hà Nội những gốc bàng sưng, khô sẹo hưng, phế. Những hàng sấu, chứng nhân buồn / vui bao đời hai hè phố. Những cây phượng giấu giếm tiếng ve mùa hè, trên cao. Con đường bờ sông dẫn ra đê Hồng Hà cát bồi, ngút mắt. Những cây soan lá nõn, reo, ngân ngày nở hoa, đơm trái. Những búp đỏ lựng, thơm tho hoa gạo -- Trôi từ Kim Bảng / Sông Đáy tới Năm cửa ô. Tiếng rao phở đêm, quyến rũ tới chảy nước miếng. Như những sớm mai tôi, cổng trường Hàng Vôi táo dầm, mùa thu; bài vè kẹo kéo, mùa đông. Ngây ngất.
Ký ức tôi vẫn bâng khuâng, huyền bí tiếng chuông, mõ từ ngôi chùa nép mình lòng ngõ Tràng An. Con ngõ mạch máu nối Triệu Việt Vương nhập thân Phố Huế, nơi tôi ở những ngày cuối cùng, Hà Nội. Nhưng ký ức tôi không có một Hà Nội, 1972, Phan Vũ.
Hà Nội, 1972 của họ Phan, là những tháng, ngày B-52, ném bom-trải-thảm tử / sinh, còn / mất trộn lẫn… mù, điếng phận người:
“Ta còn em tiếng dương cầm
Trong khung nhà đổ
Lả tả trên thềm
Bettho và Sonate Ánh Trăng.
Nốt nhạc thiên tài lẫn trong mảnh vỡ...
(…)
“Ta còn em những tràng pháo tay vang dậy.
Đêm lộng lẫy!
Cô gái dương cầm đứng giữa rừng hoa,
Nước mắt lã chã trên áo đỏ.
Rồi một ngày tả tơi,
Loạn gió”
Ký ức tôi cũng không có tiếng đàn câm. Như những phần số bỗng dưng, một sớm chia ly hình / bóng:
“Ta còn em một đam mê.
Một vật vã,
Một dang dở,
Một trống không,
Một kiếp người,
Những phím đàn long...”
Không có trong ký ức nghèo nàn Hà Nội của mình, nhưng tôi cảm nhận được nhiều (rất nhiều) những nốt lặng giữa “Năm tháng buồn xô lệch ngói âm dương.” Hay “Mỗi nỗi đau gặm mòn thêm phận số,” của Hà Nội, 1972, Phan Vũ, tán lạc hồn vía. Trắng xóa ngày mai!
Tôi vẫn nghĩ, tùy kiến thức, tập quán cảm nhận mà, mỗi cá nhân tiếp cận, đi vào tác phẩm văn chương, công trình nghệ thuật thuận/nghịch khác nhau. Tuy nhiên, nếu có những tác phẩm hiện ra như một cánh rừng, thách đố người thưởng ngoạn tự tìm lối... Thì, cũng có những tác phẩm, cung cấp cho ta những cụm từ hay, chỉ một chữ (tôi gọi là từ-chìa-khóa), giúp ta dễ dàng khám phá khu rừng thi ca nguyên sinh của tác giả.
Từ-chìa-khóa trong trường khúc Hà Nội phố của Phan Vũ là tính từ “còn”. “Còn” (nghịch nghĩa với “mất”) là chìa khóa tác giả trao cho người đọc, để mở cửa vào mọi đền đài ký ức trong cảnh thổ Hà Nội, 1972, của họ Phan. Bất cứ ai, dù bước vào cảnh thổ Hà Nội ấy, của Phan Vũ, qua cửa ngõ ca khúc Em ơi, Hà Nội phố (do Phú Quang phổ nhạc) hay qua khá nhiều dị bản Hà Nội phố của Phan Vũ, có dễ đều ngạc nhiên khi thấy dọc lộ trình tháng, ngày Hà Nội, 1972, mình họ Phan tịnh không một từ kết án B-52, ném-bom-trải-thảm.
Tác giả không “xỏ nhầm giày” của những người làm công tác tuyên truyền. Ông cũng không mặc áo khín của những chuyên viên gia công cưỡng bức chữ nghĩa. Suốt lộ trình trường khúc 443 câu, họ Phan không mang vào trong thơ ông, những khẩu hiệu...
Dọc lộ trình trường khúc 443 câu, người đọc cũng không thấy hình ảnh đấu tố, xỉa xói giặc ngoại xâm... Thay vào đấy là những nhức buốt thân phận, kiếp người, nạn nhân chiến cuộc:
Đôi tân hôn chưa kịp nằm chiếu hoa
Đã có tên trong vòng hoa tưởng niệm...
Một tháng chạp trắng khăn sô,
Khói hương dài theo phố,
Một tháng chạp
Thâu đêm.
Mẹ
Thức
Hóa vàng...
Làm người đọc chấn động tâm can, ngàn lần hơn biểu ngữ, khẩu hiệu.
Hoặc:
Một tháng chạp,
Cây bàng mồ côi, mùa đông,
Nóc phố mồ côi, mùa đông,
Mảnh trăng mồ côi mùa đông.
Tháng chạp năm ấy in hình bao mộ phố!
“Mộ phố” chỉ hai chữ đó thôi, trong thơ Phan Vũ, đủ thay thế hàng ngàn bài báo Hà Nội căm thù chiến tranh! Tôi quan niệm, tính nhân bản, cảm thức không “lề trái, lề phải” mà, chỉ có lề duy nhất: lề của nhãn quan và, rung động tự thân, độc lập, mới có thể làm thành nhân cách thi sĩ. Làm thành thước đo độ lớn tác phẩm! Tác giả Hà Nội phố, theo tôi, là một trong những tác giả hiện thân của nhân cách thi sĩ, làm nên giá trị tác phẩm.
Tác phẩm tranh sơn dầu của Phan Vũ tại triển lãm cá nhân, chủ đề “Em ơi, Hà Nội phố”, tháng 7.2018
Khi nhấn mạnh tính từ “còn” như một từ-chìa-khóa mở vào mọi đền đài trong toàn cảnh không gian Hà Nội, 1972, của Phan Vũ, tôi muốn nói tới phần bên kia, mặt tiêu trầm, khuất lấp. Mặt làm thành linh hồn bài thơ.
Dọc lộ trình trường khúc Hà Nội phố 443 câu của họ Phan, người ta thấy ắp đầy hình ảnh. Âm thanh. Như tiếng giầy, bước chân. Tiếng chuông nhà thờ. Tiếng họp chợ sớm, khuya. Tiếng mõ giấu mình đâu đó trong ngõ. Tiếng đàn guitar. Tiếng hát Trương Chi. Hình ảnh những chuyến tầu đêm vào ga. Tiếng rao hàng. Tiếng cười, khóc. Tiếng tầu điện lanh canh chở buồn, vui Hà Nội qua 36 phố, tới 5 cửa ô… Hình ảnh cô hàng hoa. Tiếng đọc truyện Kiều của bà bán quán. Tiếng lá rơi. Tiếng thang gỗ cũ vặn mình. Tiếng cánh cửa sắt cọt kẹt mở vào ngôi nhà không người ở. Hình ảnh những người yêu nhau, tìm nhau, hò hẹn / chia tay. Những thầm thì thương yêu, như những hạt mầm tốt tươi ươm cho Hà Nội đời kế. Tiếng khóc của trẻ sơ sinh, như một phần của toàn cảnh Thăng Long ngày, tháng cũ…
Nhưng tất cả chỉ là hồi tưởng. Chúng là những ngọn nến cầu siêu, gọi hồn Hà Nội. Những ngọn nến làm sáng thêm, lung linh hơn, tan tác. Hà Nội phố của Phan Vũ biến tâm hồn tôi thành chiếc nêm tội nghiệp - - Chêm giữa mất / còn. Hay tôi là con tin của hồ nghi, nhiều câu hỏi? Lúc tiếng hát Thanh Lam (?) qua ca khúc của Phú Quang, vọng về:
“Ta còn em một màu xanh thời gian
Một chiều phai tóc em bay
Chợt nhòa, chợt hiện
Người nghệ sĩ lang thang hoài trên phố
Bỗng thấy mình chẳng nhớ nổi một con đường…”
Tôi không biết người không nhớ phố hay, phố đã quên người?
Tôi cũng không biết hình ảnh, âm thanh nhớ người hay, người tương tư âm thanh, hình ảnh? Đó là xâu chuỗi hình ảnh, tiếng động mà, sự vắng mặt tương tác nhau. Như chiếc lá rơi tạo thanh âm trên mặt phố. Từ đó, phố, người đón nhận những âm vang quá khứ. Hoặc ta vốn có sẵn hình ảnh, tâm tưởng về chiếc lá; nên ký ức mở cửa đón chào?...
Trường hợp nào, với tôi, toàn cảnh Hà Nội, 1972 của Phan Vũ vẫn là những khoảng lặng mênh mông, nối những khoảng lặng tê điếng. Toàn cảnh Hà Nội, 1972, là sự vắng mặt của chính Hà Nội. Tựa những thước phim, không tiếng.
Vắng mặt đầu tiên, trong trường khúc Hà Nội, 1972, của họ Phan, trong ghi nhận của tôi, là sự sống, sắc mầu. Chúng đã bị / được người Hà Nội mang theo khi sơ tán. Một thành phố không còn thị dân, là thành phố hoang. Thành phố chết. Người Hà Nội, 1972, bỏ Hà Nội mà đi, không chỉ đem theo sự vắng mặt của mình. Họ còn để lại sau lưng, còn khêu thức nhiều vắng mặt khác!
Tôi muốn nói tới những vắng mặt của chim muông. Những tiêu sơ thiên nhiên, cảnh, vật mà, con người trong đó, thấy như thất lạc chính mình:
“Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em ráng đỏ chiều hôm
Đôi chim khuyên gọi nhau trong bụi cỏ
Đôi guốc bỏ quên bên ghế đá…”
Hoặc:
“Em ơi! Hà Nội phố!
Ta còn em con đê lộng gió.
Dòng sông chảy mang hình phố.
Cô gái dựa lưng bên gốc me già.
Ngọn đèn đường lặng thinh
Soi bờ đá…”
Vắng mặt kia, là những tấm bảng chỉ đường. Tất cả đều chỉ về một phía. Phía của tiêu trầm nhân sinh. Phía của hoang vu cảnh, vật. Côi cút lên rêu:
“Ta còn em đống than tro,
Một ngày gió nổi,
Mớ giấy tiền,
Phù du của nả.
Hai cõi âm dương,
Mịt mù bụi phố!”…
Nhưng, vẫn theo tôi, có một vắng mặt hiện ra, tự thân lại mang trong nó một vắng mặt khác. Tôi muốn gọi đó là vắng mặt mang tính vấn nạn. Câu hỏi lớn.
Vắng mặt ấy xuất hiện nhiều lần, qua nhiều câu thơ, dọc lộ trường khúc: Đó là vắng-mặt-câu-hỏi về người con gái và, “tiếng dương cầm trong căn nhà đổ”? Về hình ảnh “cô gái áo đỏ venice / xa Hà Nội.” Và:
“Ta còn em những tràng pháo tay vang dậy
Đêm lộng lẫy!
Cô gái dương cầm đứng giữa rừng hoa,
“Nước mắt lã chã trên áo đỏ…”
Trả lời câu hỏi về vắng mặt như một bệt màu chói gắt trong nền tranh rêu xám này, tác giả cho biết:
- Đó là dương cầm thủ Trịnh Thị Nhàn, rất nổi tiếng tại Âu châu từ nhiều chục năm qua. Một người bạn hàng xóm, thân với ông từ thuở nhỏ. Trịnh Thị Nhàn ở phố Quán Thánh. Cùng với Đặng Thái Sơn, cô là học trò cưng của bà Thái Thị Liên.
Năm 1945, Hà Nội tiêu thổ kháng chiến. Ở vùng kháng chiến, không có piano, có thời gian bạn ông đã phải học bằng cách vẽ lại hình dạng, các phím dương cầm trên tấm phản gỗ… Thời gian trước sơ tán, ở Hà Nội, buổi tối, nhất là những đêm mưa, ông thường qua thăm, thả tâm hồn mình trôi trong tiếng dương cầm của bạn…
Ông kể:
“Cô bạn tôi sau đó, được sang Nga học piano. Rồi định cư tại Pháp. Cô được mời trình diễn khắp Âu châu. Nhắc tới tên cô, những người hâm mộ dương cầm ở Âu châu, hầu như chẳng mấy ai không biết. Tuy nhiên, đời sống tình cảm của cô ấy thì lại quá bi đát. Cô bạn tôi không may mắn, sớm bị thất vọng, đổ vỡ ngay từ cuộc hôn nhân ngắn ngủi thứ nhất…”
Họ Phan cũng cho biết thêm, đoạn thơ:
“Căn gác trọ đường vào bằng cửa sổ
Lão Mozard hàng xóm
Bảy nốt cù cưa.
Từng đêm quên giấc ngủ…”
Cũng đi ra từ tiếng dương cầm lộng lẫy của Trịnh Thị Nhàn. Kỷ niệm thời niên thiếu, hai người.
Là một trong những vắng-mặt-câu-hỏi của bức phù điêu, Hà Nội, 1972, của Phan Vũ vậy.
Bút tích bài thơ Bình vỡ Phan Vũ tặng Du Tử Lê. "Phan Vũ kể, nếu Nhân Văn số 6 ra đời, với bài thơ nhan đề Bình vỡ của ông đăng tải trong số báo ấy, thì ông không biết những miểng vỡ của chiếc bình kia sẽ ghim vào thân thế ông ở mức độ nào?" - Du Tử Lê viết.
Tôi nghĩ, những người yêu mến thơ Phan Vũ, đa số biết rằng, lãnh vực hay sở trường của họ Phan là điện ảnh. Ở vị trí hàng đầu trong lãnh vực nghệ thuật thứ bảy từ những năm cuối thập niên 1940 (thời phôi thai nền điện ảnh Việt Nam) Phan Vũ là bằng hữu thân thiết của nhiều tên tuổi lẫy lừng thời đó...
Như thắc mắc của một số người, tôi không biết ngôn ngữ điện ảnh ảnh hưởng tới ngôn ngữ thi ca của họ Phan? Hay ngược lại? Theo tôi, hai bộ môn nghệ thuật, văn học này, ít nhất cũng có chung nhau một mẫu số. Mẫu số hình ảnh. Nhưng tôi vẫn nghĩ, hình ảnh trong điện ảnh là những liên-ảnh. Nói cách khác, ngôn ngữ điện ảnh là ngôn-ngữ-mở. Hiểu theo nghĩa, căn bản hình ảnh này khơi mở, mời gọi hình ảnh khác.
Trong khi ngôn ngữ của thi ca, vẫn theo tôi, là ngôn-ngữ-khép. Hiểu theo nghĩa kiệm lời. Ít chữ. Thi ca cho phép người làm thơ “nhảy cóc” từ hình ảnh, trạng thái này qua hình ảnh, trạng thái khác. Không nhất thiết phải có một chiếc cầu liên kết đôi bờ. Chiếc cầu, nếu cần thiết phải có, sẽ do chính độc giả (tùy trình độ, cảm quan) thiết lập. Đó cũng là những khoảng trắng, mang tính liên tưởng văn học mà, thi ca để dành cho người đọc.
Tỷ như một trong những câu thơ gây ấn tượng mạnh mẽ cho nhiều người, ở trường khúc Hà Nội phố là: “Ta còn em tiếng dương cầm/ Trong căn nhà đổ...”. Nếu hình ảnh, âm thanh này xuất hiện trong một cuốn phim thì, đạo diễn (Phan Vũ) trước (hoặc sau), phải có đoạn phim ghi lại hình ảnh ngôi nhà thời nguyên vẹn. Hình ảnh người nữ, dương cầm thủ (dù chỉ dáng ngồi) cùng cây đàn, tiếng đàn... Nhưng ở cương vị thi sĩ, tác giả chỉ cần dùng tính từ “còn” người đọc sẽ liên tưởng tới những hình ảnh, âm thanh, chiếc đàn, người chơi đàn đã... vắng. Mất.
Nói cách khác, Hà Nội phố của Phan Vũ, theo tôi, là một cuốn phim vĩ đại, đánh dấu một giai đoạn, một thời kỳ Hà Nội. Nó cho Hà Nội, 1972, một linh hồn giữa khi cảnh vật, con người đã tiêu trầm hồn, tính. Bài thơ họ Phan còn cho thấy tương tác máu, thịt giữa hai loại hình nghệ thuật. Một liên-ảnh, một hợp hôn không thể tốt đẹp hơn, rực rỡ hơn giữa nghệ thuật và, văn học.
Định mệnh của Hà Nội phố, do đấy, tôi nghĩ, là định mệnh bất phân ly một phần lịch sử Hà Nội.
Du Tử Lê/Người Đô Thị