Phần lớn người quản trị đại học đều tin rằng người tốt nghiệp của họ được chuẩn bị tốt cho việc làm trong công nghiệp trong khi người quản lí công ti không nghĩ như vậy. Một đại diện công nghiệp phàn nàn: “Nhiều thứ mà họ đang dạy trong đại học ngày nay là lỗi thời rồi. Khi chúng tôi thuê người tốt nghiệp của họ, chúng tôi phải đào tạo lại họ và điều đó là tốn kém. Vấn đề là công nghiệp của chúng tôi cần công nhân CNTT có chất lượng nhưng chúng tôi không thể thuê được đủ họ điều có nghĩa là thiếu hụt này sẽ tiếp tục.”
Sự bất đồng này là nghiêm trọng khi nó xảy ra cho các kĩ năng kĩ thuật chuyên sâu như tính toán mây, phát triển ứng dụng di động, phân tích big data và an ninh công nghệ thông tin vì ngay cả ngày nay cũng chỉ vài đại học có chương trình đào tạo đầy đủ về những kĩ năng này.
Đại diện công nghiệp giải thích: “Chúng tôi cần có ít nhất hai triệu công nhân có kĩ năng trong các khu vực này trong năm năm tới nhưng chỉ có vài nghìn người đủ phẩm chất để lấp vào những việc làm này. Các đại học nói sẽ mất nhiều năm để xây dựng chương trình đào tạo, và điều đó là không chấp nhận được.” Một đại diện đại học giải thích: “Phải mất thời gian để xây dựng chương trình đào tạo và thuê giáo sư có phẩm chất. Công nghệ thay đổi nhanh quá và khó mà theo kịp được.”
Mọi người thường hỏi tại sao các đại học không thể cải tiến được việc đào tạo của họ để đáp ứng cho nhu cầu công nghiệp. Theo khảo cứu này, có nhiều lí do:
Thứ nhất, chương trình giáo dục được các giáo sư hàn lâm tạo ra, người nghĩ họ biết cái gì là tốt nhất cho học sinh và nó có thể không phải là điều công nghiệp cần. Nhiều giáo sư tin đại học không phải là trường hướng nghề mà đào tạo công nhân cho công nghiệp.
Thứ hai, các đại học là những thực thể độc lập và không có sự khẩn thiết phải thay đổi; thái độ chung là tại sao bận tâm làm cái gì đó không cần thiết?
Thứ ba, mục đích của đại học là truyền thụ tri thức cho sinh viên và nó làm điều đó bằng việc dạy cho họ về quá khứ dựa trên tri thức tập thể của các giáo sư về môn học. Phần lớn các giáo sư được giáo dục từ nhiều năm về trước cho nên tri thức của họ là trong quá khứ, cho dù họ học những điều mới nhưng không dễ thay đổi điều họ đã biết rõ nhất. Phần lớn hệ thống giáo dục đều dựa trên hệ thống cấp bậc nơi người cao niên có ưu thế; bạn càng dạy lâu, bạn càng có địa vị cao, cho nên các giáo sư có thể tiếp tục dạy cho tới khi họ tới lúc về hưu quãng 60 hay 70 tuổi. Nếu họ bắt đầu dạy trong cuối những năm 20 tuổi điều đó nghĩa là tri thức của họ là cũ 30 tới 40 năm. Trừ phi có yêu cầu nâng cấp đào tạo, nhiều người tiếp tục dạy điều họ biết rõ. Đó là lí do tại sao nhiều chương trình đào tạo khó thay đổi cho dù nó có thể lỗi thời.
Thứ tư, tính ổn định là cấu phần then chốt trong giáo dục và phần lớn những người quản trị nhà trường ưa thích giữ nó theo cách đó thay vì làm cái gì đó mà có thể phá đổ tính ổn định của trường.
Trong thế giới đang thay đổi nhanh chóng này, sinh viên cần hiểu tác động của công nghệ tới kinh tế, xã hội, văn hoá và môi trường. “Thế giới phẳng” yêu cầu rằng sinh viên không chỉ hiểu tác động trong nước họ, mà còn có tri thức về các nước khác và cách họ giải quyết với công nghệ nữa. Để đáp ứng nhu cầu của thế kỉ 21, sinh viên phải tích cực hơn trong lập kế hoạch nghề nghiệp của họ, lựa chọn lĩnh vực học tập đúng, và đại học đúng để tham dự. Họ phải chắc rằng họ nhận được giáo dục tốt nhất điều cho phép họ phát triển kĩ năng được cần để cho họ có thể phát triển nghề nghiệp thành công và đóng góp cho xã hội.