Thương mại cà phê là nhân tố quan trọng, góp phần biến chuyển cục diện nền kinh tế Hà Lan, đưa quốc gia này trở thành cường
quốc hàng hải toàn cầu, thống trị kinh tế thế giới trong thế kỷ 17.
Thương mại cà phê và sự dịch chuyển quyền lực kinh tế
Người Hà Lan có câu “The Dutch made Holland – người Hà Lan tạo ra đất nước Hà Lan”. Bắt nguồn từ vị trí địa lý đặc thù, khoảng 26% diện tích nằm thấp hơn mực nước biển, không có dãy núi hoặc biên giới tự nhiên bảo vệ lãnh thổ. Trong phần lớn lịch sử, Hà Lan bị đế chế La Mã, bộ lạc Celtic, người Đức, người Viking, người Áo, người Tây Ban Nha… đánh chiếm và cai trị. Cho đến năm 1576, quốc gia này mới thống nhất nội bộ.
Trở ngại vị thế địa lý lại cho người Hà Lan lợi thế về sự am hiểu biển cả, truyền thống đi biển và năng lực đóng tàu vượt trội so với tất cả các cường quốc châu Âu khác. Nhờ vậy, khi hoạt động thương mại hàng hải trỗi dậy vào thế kỷ 17, người Hà Lan đã ôm mộng vươn mình chinh phục thế giới. Thương nhân Hà Lan vốn nổi tiếng là những “triết gia đầu tư”. Họ không đơn thuần chỉ là những con buôn. Trong niềm tin của người Hà Lan, hai vị thần bảo trợ thương mại Mercury và Minerva đại diện cho sự uyên bác (eruditio), văn hóa (humantas), trí tuệ (sapientia). Một thương gia lý tưởng phải nỗ lực học hỏi, phấn đấu đạt được các phẩm tính của thần bảo trợ thương mại để tạo nên sự giàu có, thịnh vượng cho quốc gia.
Trong quá trình giao thương với các đế chế phương Đông, thương gia Hà Lan sớm nhận thức về hạt cà phê. Từ thế kỷ 16, cà phê đã là thức uống phổ biến và thiết lập thói quen xã hội ở Ottoman, Trung Đông, Nam Ấn Độ, Ba Tư, Sừng Châu Phi, bắc Phi, Balkan, Ý… Vì kinh doanh cà phê là nguồn lợi chủ lực của đế chế Ottoman nên để giữ thế độc quyền, họ kiểm soát nghiêm ngặt ngăn không cho hạt giống nào rời khỏi lãnh thổ. Trước khi xuất khẩu qua cảng Mocha,hạt cà phê được ngâm nước sôi hoặc rang chín nhằm đảm bảo không thể nảy mầm. Mặc dù vậy, khi người Hà Lan nhìn thấy giá trị kinh tế của hạt cà phê, họ đã tìm cách nhân rộng cây giống trên thuộc địa của mình để khai thác.
Năm 1616, Pieter Van dan Broeck – một thương nhân Hà Lan đã mang cây cà phê từ Mocha về Hà Lan. Năm 1640, một thương gia khác tên Johann Siegmund Wurffbain rao bán lô hàng cà phê thương mại đầu tiên ở Amsterdam. Tuy nhiên, khí hậu Hà Lan không phù hợp với canh tác cà phê quy mô lớn. Năm 1696, Hà Lan vận chuyển cây cà phê đến đảo Java ở Indonesia, sau đó mở rộng đến Celebes, Timor, Bali (châu Á) và Sumatra, Brazil (châu Mỹ). Cây cà phê bám rể phát triển tạo thành vùng nguyên liệu mới.
Thế kỷ 17, cà phê là một trong những nguyên liệu mang lại lợi nhuận nhất thế giới. Các cường quốc Anh, Pháp và Hà Lan tham gia vào cuộc cạnh tranh gay gắt để giành thị phần. Điều này dẫn đến thương mại cà phê trở thành yếu tố kinh tế quyết định cán cân quyền lực ở châu Âu. Người Hà Lan triệt để khai thác đồn điền cà phê ở thuộc địa. Công ty Đông Ấn Hà Lan (thành lập vào năm 1602) tiến hành nghiên cứu chuỗi cung ứng cà phê một cách bài bản. Họ ký kết các thỏa thuận bắt buộc các thuộc địa tham gia vào ngành sản xuất cà phê và chuyển nhượng một phần sản lượng cho Công ty Đông Ấn Hà Lan.
Hàng loạt đồn điền cà phê từ châu Á đến châu Mỹ trở thành nguồn cung cấp cà phê cho tiêu thụ và xuất khẩu của Hà Lan. Cùng với hệ thống vận tải đường biển mạnh nhất đương thời, Hà Lan dần chiếm giữ vai trò cung cấp cà phê lớn nhất toàn cầu. Sự giàu có nhờ khai thác lợi nhuận thương mại đưa Hà Lan vượt qua Tây Ban Nha và Bồ Đồ Nha, trở thành đế chế hưng thịnh thống trị ngành hàng hải trong thế kỷ 17.
“Kỷ nguyên vàng của người Hà Lan”
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của cải các quốc gia”, cha đẻ Kinh tế học hiện đại Adam Smith ca ngợi Hà Lan là gương mẫu hàng đầu của một xã hội thương mại, và thương mại tự do là nền tảng sự giàu có to lớn của Hà Lan. Nguồn ngân sách khổng lồ thu được từ thương mại thúc đẩy một trong những kỷ nguyên vĩ đại nhất trong lịch sử Hà Lan.
Các doanh nhân giàu có đóng vai trò quan trọng dẫn dắt xã hội Hà Lan. Họ tham gia vào các hoạt động hoạch định chính sách và đầu tư tài chính bảo trợ các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học công nghệ, quân sự,… đặc biệt là giáo dục. Hà Lan xóa mù chữ cho người dân bằng cách thể chế hóa hệ thống giáo dục, trẻ mồ côi cũng được học tập miễn phí. Người Hà Lan gọi đây là quá trình tích lũy sức mạnh con người. Giữa thế kỷ 17, tỉ lệ người có học vấn cao ở Hà Lan tăng một cách đáng kinh ngạc.
Giáo dục đánh thức đời sống văn hóa và trí thức. Nhu cầu đọc sách và phổ biến sách nở rộ. Vào thế kỷ 17, sách được in ở Hà Lan nhiều hơn tất cả các nước châu Âu khác gộp lại, ngay cả một người nghèo ở nông thôn cũng có thể được tiếp cận tri thức từ sách. Đây là nền tảng căn cốt tạo nên sự bùng nổ trí tuệ chưa từng có. Các trào lưu triết học - tư tưởng, các loại hình văn học, nghệ thuật, khoa học,… phát triển mạnh mẽ vô song. Hàng quán cà phê thời kỳ này cũng trở thành không gian thư viện. Hầu hết các quán cà phê ở Amsterdam như German Coffee House, North Holland Coffee House, English Coffee House… luôn luôn có rất đông người đến đọc sách báo và tham gia chia sẻ các thông tin mới nhất.
Thương mại cà phê cũng liên quan đến việc giao thoa tri thức giữa phương Tây và phương Đông. Trong quá trình giao thương và mở rộng vùng nguyên liệu cà phê, người Hà Lan đã khám phá và mang về châu Âu những kiến thức về một châu Á huyền bí, giúp các nhà khoa học hệ thống lại nhận thức của phương Tây về thế giới. Điển hình như trong tác phẩm “Nguyên tắc toán học trong vạn vật học” của nhà bác học Isaac Newton, khi giải thích về thủy triều đã nhắc đến hiện tượng mực nước lên xuống chỉ một lần trong ngày tại cảng Batsham thuộc vương quốc Tunquini (Đàng Ngoài - vùng lãnh thổ Đại Việt do Chúa Trịnh kiểm soát). Người Hà Lan cũng học hỏi mỹ nghệ gốm sứ Trung Quốc, Nhật Bản kết hợp kỹ thuật nung học được từ Ý để sáng tạo nên dòng gốm Delftware độc đáo, xuất khẩu khắp châu Âu. Ở chiều ngược lại, sách và các chuyên gia uyên bác người Hà Lan cũng ảnh hưởng lớn đến các quốc gia châu Á. Trong 200 năm, người Nhật đã tiếp thu văn minh phương Tây thông qua “Hà Lan học”, tác động trực tiếp đến nền tảng khoa học kỹ thuật và tư tưởng hiện đại của Nhật Bản.
Thành công trong thương mại cà phê của Hà Lan đã đưa hạt cà phê phổ biến trên toàn cầu, mở rộng các vùng nguyên liệu cà phê, góp phần cho việc đa dạng văn hóa cà phê với vô số hình thức thưởng lãm được biến thể theo đặc trưng riêng ở mỗi quốc gia. Đồng thời, thương mại cà phê cũng là một trong những nhân tố dẫn đến “Kỷ nguyên vàng của người Hà Lan”. Xã hội ngày càng giàu có, trình độ dân trí cao, các lĩnh vực nghệ thuật, khoa học, kỹ thuật, triết học và văn hóa phát triển rực rỡ đã biến Hà Lan từ một vùng đất chịu sự cai trị vươn vai phát triển thành cường quốc ảnh hưởng bậc nhất thế giới trong thời kỳ cận đại.
Đón đọc kỳ sau: Danh họa Vincent Van Gogh và những quán cà phê đi vào lịch sử.
Bình luận của bạn đã được gửi và sẽ hiển thị sau khi được duyệt bởi ban biên tập.
Ban biên tập giữ quyền biên tập nội dung bình luận để phù hợp với qui định nội dung của Hạt giống tâm hồn.
Có những nơi đã từng là cả bầu trời tuổi thơ của người dân TP.HCM một thời. Nay chẳng còn dấu vết, nhưng mỗi lần nhắc lại, ký ức lại ùa về đầy dư vị...
Theo PGS.TS Trần Thị Mai, trong quá khứ, người phương Tây ví Sài Gòn còn lớn hơn Băng Cốc của Vương quốc Xiêm và không thua kém một số thành phố ở châu Âu. Vì vậy, họ đã từng quyết tâm xây dựng Sài Gòn thành một 'Paris thu nhỏ'.
Cứ thử hỏi một người từng sống qua nhiều thời đoạn của Hà Nội về những sân khấu, bạn sẽ bất ngờ nhận ra rằng, đối với họ, đó là một vùng ký ức sống động nhường nào. Hoài niệm về những vở diễn, âm sắc, tình tiết sau lớp màn nhung luôn lung linh, lấp lánh, gợi nhắc về một thời vàng son rực rỡ, ngập tràn xúc cảm giữa lòng Thủ đô…
Với khát vọng dẫn đầu và chinh phục thế giới, Tây Ban Nha dần trở thành cường quốc thực dân có tầm ảnh hưởng nhất trên thế giới, với lãnh thổ trải dài từ California tới Patagonia, cùng các thuộc địa đến tận ở tây Thái Bình Dương...
Thay đổi màu sắc, vẽ thêm họa tiết… những ý tưởng đơn giản chỉ dùng cọ vẽ và sơn, tưởng chừng không mấy liên quan nhưng lại có thể giúp bảo vệ gia súc khỏi thú săn mồi, hay ngăn không cho chim “đâm đầu vào chỗ chết”.
Chủ nhân của giải Nobel Văn học 2020 không hề có trong danh sách dự đoán của nhiều nhà cái . Nhưng với những người yêu thơ ca đương đại Mỹ, chiến thắng của Louise Glück là một kết quả xứng đáng.
Nhóm bạn trẻ 8X đã dùng công nghệ 3D để phục dựng cột đá chùa Dạm, công trình kiến trúc quan trọng bậc nhất còn sót lại từ thời Lý, nổi bật là hình khắc nổi cặp rồng của triều đại này.
Nữ họa sĩ người Ý Artemisia Gentileschi (1593-1656) lúc sinh thời hay bị nhắc nhớ đến bởi những bi kịch xảy ra trong cuộc đời, nhiều hơn là những siêu phẩm hội họa mà bà sáng tạo nên.
Sở xây dựng TP.HCM vừa có thông báo yêu cầu chủ đầu tư dự án khu cao ốc tứ giác Bến Thành và các đơn vị liên quan khẩn trương khắc phục hư hỏng nghiêm trọng tại Bảo tàng Mỹ thuật trong quá thi công, cũng như đảm an toàn cho người dân.
“Không còn bệnh tim” (No More Heart Disease) là quyển sách công phu của Dr. Louis J. Ignarro, về việc ngăn ngừa và chữa trị bệnh tim mạch bằng oxit nitric (NO).
“Không còn bệnh tim” (No More Heart Disease) là quyển sách công phu của Dr. Louis J. Ignarro, về việc ngăn ngừa và chữa trị bệnh tim mạch bằng oxit nitric (NO).
Trong một thế giới không ngừng biến động, giới trẻ không chỉ mưu cầu thành công mà còn khao khát sống có ý nghĩa. Nhiều người bắt đầu tự hỏi: "Tôi sống vì điều gì?", "Điều gì khiến tôi muốn thức dậy mỗi sáng?". Và chính lúc ấy, hành trình đi tìm Ikigai bắt đầu.
"Tôi đã từng nhiều lần thất vọng … và rồi chợt nhận ra rằng, tình yêu thương thật sự không đong đếm bằng những bảng điểm đẹp hay những lời khen ngợi...", cô Diệp Quỳnh chia sẻ.
Sự xấu hổ thực chất gắn liền với sức khỏe tâm thần. Ta xấu hổ khi cảm thấy khổ sở, buồn bã hoặc lo lắng, nỗi xấu hổ này tạo ra những cảm xúc khó khăn hơn nữa, làm sức khỏe tinh thần thêm kém.
Có thể bạn nghĩ rằng lò vi sóng chỉ có thể dùng để hâm nóng đồ ăn. Nhưng hãy để tôi cho bạn thấy cách mẹ tôi dùng nó, đúng là "gừng càng già càng cay"!.