Nhà thơ Tô Thùy Yên vừa mất vào ngày 9 giờ 15 ngày 21.5.2019 (theo giờ Mỹ) tại thành phố, Houston, tiểu bang Texas, Mỹ, hưởng thọ 81 tuổi. Thông tin nhà thơ Tô Thùy Yên qua đời được nhiều người trong giới văn nghệ Sài Gòn và hải ngoại ngậm ngùi chia sẻ trên Facebook.
Trên trang cá nhân của nhiều văn nghệ sĩ Việt Nam, hình ảnh tác phẩm, những câu thơ tiêu biểu của Tô Thùy Yên cũng được đăng tải như một sự bày tỏ lòng ngưỡng mộ và thương tiếc một tài năng thi ca của Việt Nam đã về với cõi vĩnh hằng.
Nhà thơ Tô Thùy Yên - Ảnh: T.L
Nhà thơ Tô Thùy Yên, tên thật Đinh Thành Tiên, sinh năm 1938 tại Gò Vấp, Gia Định, Sài Gòn trong một gia đình đông các em; cha làm chuyên viên phòng thí nghiệm thuộc Viện Pasteur, sau về Bệnh viện Chợ Rẫy; mẹ nội trợ. Ông học tiểu học ở Gia Định, rồi học trung học tại trường Petrus Trương Vĩnh Ký và tư thục Les Lauriers, ghi danh theo học ở Đại học Văn Khoa Sài Gòn, ban Văn chương Pháp, một thời gian rồi bỏ dở.
Chân dung nhà thơ Tô Thùy Yên - Ảnh: Thuận Thiên
Tô Thùy Yên bén duyên với văn chương từ rất sớm. Năm 16, 17 tuổi, thơ của ông đã có mặt trên báo chí Sài Gòn. Nhắc đến tên tuổi của ông người yêu thơ luôn nhớ đến những tác phẩm nổi tiếng của ông như Chiều trên phá Tam Giang, Trường Sa hành, Đêm qua bắc Vàm Cống, Hải phận, Anh hùng tận...
Năm 1961, tạp chí Sáng Tạo (Sài Gòn) đã in bài thơ Lễ tấn phong tình yêu của Tô Thùy Yên khi ông vừa 23 tuổi. Năm 1956, ông cùng cùng nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, các họa sĩ Duy Thanh, Ngọc Dũng sáng lập Sáng Tạo, một nhóm sáng tác đã từng được biết đến với phong trào khai sinh "Thơ tự do" trên văn đàn miền Nam vào thập niên 1960.
Cùng với Bùi Giáng, Thanh Tâm Tuyền, Nguyễn Đức Sơn, Tô Thùy Yên được tôn vinh là tứ trụ của thơ ca miền Nam thời bấy giờ.
Năm 1995, tập Thơ tuyển của Tô Thùy Yên ra đời, một lần nữa khẳng định tài năng của ông trong bầu trời nghệ thuật thi ca Việt Nam.
Cuối năm 1993, ông cùng gia đình sang định cư tại Saint Paul, Minnesota, sau đó chuyển về sinh sống tại thành phố Houston, bang Texas, Mỹ cho đến ngày qua đời.
Tô Thùy Yên (trái) và họa sĩ Đinh Cường - Ảnh: TL
Nhận xét về văn chương của Tô Thùy Yên, nhà văn Nguyễn Ngọc Tuấn viết: “Thơ Tô Thùy Yên là sự kết hợp hoàn chỉnh và đẹp đẽ giữa hai yếu tố mà giới phê bình lý luận văn học tại Việt Nam thường nói đến: tính dân tộc và tính hiện đại. Có thể dễ dàng tìm thấy trong thơ Tô Thùy Yên vô số những dấu vết của truyền thống bên cạnh vô số những điểm cách tân độc đáo: cả hai hài hòa với nhau làm cho thơ ông, ở những bài thành công nhất, có cái hoàn hảo của những tác phẩm cổ điển”.
Trong một bài viết của đăng trên báo Người Đô Thị vào năm 2017, nhà thơ Ý Nhi gọi Tô Thùy Yên là “Gã du hành muôn năm muôn nơi”. “Như mọi nhà thơ lớn, khi bắt đầu, Tô Thùy Yên đã định vị chỗ đứng của mình. Thi sĩ 18 tuổi lựa chọn sự đối đầu. Với Thượng đế, “Đầu tôi cứng và trơn/ Thượng đế làm sao ngự”, với Hư vô: “Có đọc thuộc thánh thư/ Linh hồn tôi vẫn vậy/ Tôi vẫn không thể lạy/ Dù đứng trước hư vô”, với Cuộc đời: “Với thứ linh hồn quốc cấm/ Tôi tù tội chung thân”, với Thơ: “Tôi giựt giành đổ máu với tôi/ từng chữ một”. Và, thi sĩ chấp nhận nỗi cô đơn: “Tôi thấy đã mất mát/ Tất cả trừ cô đơn”, chấp nhận “cuộc tuần du bất tận… về nơi hẹn nào không định trước”, chấp nhận những đau đớn, những oan khiên, những trượt lỡ của cuộc đời. Đó là một lựa chọn có ý thức. Và vì vậy, đã được nhà thơ giữ trọn suốt một đời thơ dài hơn 60 năm.
Có thể nói, thơ Tô Thùy Yên là câu chuyện của “gã du hành muôn năm muôn nơi”. Cách khác, chính xác hơn, đó là cuộc độc thoại của con người đầy ý thức về cõi thế, về cõi người, về lẽ mất, còn, về dựng xây và hủy diệt, về hy vọng và tuyệt vọng...”, nhà thơ Ý Nhi viết.
Toujours il y eut cette clameur,
Toujours il y eut cette fureur...
(Saint John Perse)
Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề
Lính thú mươi người lạ sóng nước
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi
Mùa Đông Bắc, gió miên man thổi
Khiến cả lòng ta cũng rách tưa
Ta hỏi han, hề, Hiu Quạnh Lớn
Mà Hiu Quạnh Lớn vẫn làm ngơ
Đảo hoang, vắng cả hồn ma quỉ
Thảo mộc thời nguyên thủy lạ tên
Mỗi ngày mỗi đắp xanh rờn lạnh
Lên xác thân người mãi đứng yên
Bốn trăm hải lý nhớ không tới
Ta khóc cười như tự bạo hành
Dập giận, vác khòm lưng nhẫn nhục
Đường thân thế lỡ, cố đi nhanh
Sóng thiên cổ khóc, biển tang chế
Hữu hạn nào không tủi nhỏ nhoi?
Tiếc ta chẳng được bao nhiêu lệ
Nên tưởng trùng dương khóc trắng trời
Mùa gió xoay chiều, gió khốc liệt
Bãi Đông lở mất, bãi Tây bồi
Đám cây bật gốc chờ tan xác
Có hối ra đời chẳng chọn nơi?
Trong làn nước vịnh xanh lơ mộng
Những cụm rong óng ả bập bềnh
Như những tầng buồn lay động mãi
Dưới hồn ta tịch mịch long lanh
Mặt trời chiều rã rưng rưng biển
Vầng khói chim đen thảng thốt quần
Kinh động đất trời như cháy đảo...
Ta nghe chừng phỏng khắp châu thân
Ta ngồi bên đống lửa man rợ
Hong tóc râu, chờ chín miếng mồi
Nghe cây dừa ngất gió trùng điệp
Suốt kiếp đau dài nỗi tả tơi
Chú em hãy hát, hát thật lớn
Những điệu vui, bất kể điệu nào
Cho ấm bữa cơm chiều viễn xứ
Cho mái đầu ta chớ cúi sâu
Ai hét trong lòng ta mỗi lúc
Như người bị bức tử canh khuya
Xé toang từng mảng đời tê điếng
Mà gửi cùng mây, đỏ thảm thê
Ta nói với từng tinh tú một
Hằng đêm, tất cả chuyện trong lòng
Bãi lân tinh thức âm u sáng
Ta thấy đầu ta cũng sáng trưng
Đất liền, ta gọi, nghe ta không?
Đập hoảng Vô Biên, tín hiệu trùng
Mở, mở giùm ta khoảng cách đặc
Con chim động giấc gào cô đơn
Ngày. Ngày trắng chói chang như giũa
Ánh sáng vang lừng điệu múa điên
Mái tóc sầu nung từng sợi đỏ
Kêu dòn như tiếng nứt hoa niên
Ôi lũ cây gầy ven bãi sụp
Rễ bung còn gượng cuộc tồn sinh
Gắng tươi cho đến ngày trôi ngã
Hay đến ngày bờ tái tạo xanh
San hô mọc tủa thêm cành nhánh
Những nỗi niềm kia cũng mãn khai
Thời gian kết đá mốc u tịch
Ta lấy làm bia tưởng niệm Người
(3.1974)
Tô Thùy Yên
Tiểu Vũ