Nhưng mặc dù hai triết lý dường như khác nhau đáng kể, chúng vẫn có rất nhiều điểm chung. Phật giáo đã được chia ra rất nhiều nhánh, cả với tư cách là một tôn giáo và triết học. Trong bài đăng này, chúng tôi sẽ coi Phật giáo như một triết học để so sánh.
Đau khổ
Một trong những điểm tương đồng có thể thấy ngay lập tức giữa Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo là cả hai đều được tạo ra thông qua sự tồn tại của đau khổ. Zeno bị đắm tàu và mất tất cả, dẫn đến việc thành lập Chủ nghĩa Khắc kỷ.
Phật chưa bao giờ thấy đau khổ cho đến khi ông ấy bước ra thế giới. Nhận thức nghiệt ngã rằng đau khổ tồn tại là điều đã thôi thúc ông tìm kiếm chân lý và tạo ra Phật giáo.
Cả hai người đều có nhiều của cải vật chất hơn hầu hết người khác. Tuy nhiên, sự thiếu thốn của cải vật chất cuối cùng đã dẫn đến sự ra đời của Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo. Mối quan hệ giữa hai triết lý và đau khổ không chỉ dừng lại ở nguồn gốc của chúng, mà còn nhiều hơn nữa.
Sự tò mò
Chủ nghĩa khắc kỷ và Phật giáo sẽ không thể thành hiện thực nếu không có sự tò mò của người sáng lập. Zeno tò mò muốn tìm hiểu thêm về các triết gia như Socrates, trong khi Phật tò mò muốn nhìn thế giới bên ngoài cung điện.
Sự tò mò này được phản ánh trong những lời dạy của Chủ nghĩa Khắc kỷ và Chủ nghĩa Phật giáo. Cả hai triết lý đều khuyến khích người theo đặt ra thật nhiều câu hỏi và tò mò, thay vì làm theo lời dạy của họ một cách mù quáng.
Đối với cả Zeno và Đức Phật, sự thật quan trọng hơn là đúng sai.
Để học hỏi từ những người sáng lập, chúng ta không nên coi một trong hai triết lý là kết thúc tất cả, mà hãy coi đó là nền tảng cho một cách sống tốt hơn trong thế kỷ 21.
Vai của những người khổng lồ
Cả Zeno và Phật đều được ai đó truyền cảm hứng để bắt đầu hành trình khám phá bản thân và cải thiện loài người. Đối với Zeno, đó là sự khắc họa hình ảnh của Socrates từ Xenophone. Đối với Phật, đó là một người đàn ông vô gia cư ngồi thiền dường như không bị thế giới bên ngoài làm phiền.
Cả hai nhà sáng lập cũng liên tục tìm kiếm thêm kiến thức và sự thông thái từ các triết gia cho đến các nhà sư. Họ học hỏi những người đi trước với sự khiêm tốn, mặc dù một người là con vua và người kia là một thương gia giàu có một thời.
Phật đã sống với năm nhà khổ hạnh và cố gắng học hỏi từ họ. Zeno cũng đã nghiên cứu nhiều trường phái triết học với hơn nửa tá giáo viên. Sau khi “học hỏi", cả Zeno và Phật đã tiếp tục kết hợp những phần tốt nhất của những gì họ học được từ giáo viên và kinh nghiệm của chính họ thành những gì mà chúng ta ngày nay gọi là Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo.
Và bây giờ, tương tự như cách Zeno và Budda đứng trên vai những người khổng lồ để tạo ra triết lý của mình, chúng ta đến cùng sự khiêm tốn và tò mò để học hỏi từ họ.
Tiết chế là chìa khóa
Chủ nghĩa khắc kỷ và Phật giáo đều cố gắng loại bỏ tối đa sự dư thừa. Cả hai triết lý đều hiểu rằng thú vui hay của cải vật chất không phải là điều cần thiết trong cuộc sống, cũng không phải là điều bắt buộc để có được hạnh phúc.
Những người theo chủ nghĩa Khắc kỷ thờ ơ với của cải vật chất hoặc thú vui tầm thường, họ có thề yêu thích chúng, nhưng việc thiếu nó không ảnh hưởng đến khả năng sống đạo đức và hạnh phúc của người Khắc kỷ. Một trong 4 đức tính Khắc kỷ, Temperance, cũng có thể được dịch là tiết độ.
Người Phật tử tránh vừa thừa vừa thiếu. Đối với một Phật tử, có đủ là đủ, không hơn, không kém. Quá nhiều có thể khiến người ta mất tập trung khỏi Bát Chánh Đạo, trong khi quá ít có thể cản trở khả năng của người ta theo nó.
Một điểm khác biệt quan trọng cần lưu ý ở đây là Chủ nghĩa Khắc kỷ “khoan dung” hơn Phật giáo khi nói đến sự tiết chế. Khắc kỷ có một bài tập thực hành tự nguyện về sự không thoải mái, về cơ bản là một bài tập trong tình trạng cực kỳ thiếu niềm vui hoặc sự thoải mái, để có được khả năng phục hồi và nhận thức.
Một người Khắc kỷ cũng có thể sống một “lối sống hào nhoáng” miễn là đó cũng là một người có đạo đức. Nhưng tựu chung lại, Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo đều hiểu rõ sự nguy hiểm của việc có quá nhiều hay quá ít bất cứ thứ gì.
Đau khổ đến từ tâm trí
Khắc kỷ và Phật giáo đều có thể đồng ý rằng nỗi đau là có thật, nhưng đau khổ xuất phát từ tâm trí. Các Phật tử tin rằng đau khổ đến từ sự ràng buộc của chúng ta với những ham muốn, trong khi những người theo phái Khắc kỷ tin rằng đau khổ đến từ sự phán xét của chúng ta đối với các sự kiện bên ngoài.
Một Phật tử loại bỏ đau khổ bằng cách tách mình ra khỏi ham muốn của mình. Một người Khắc kỷ loại bỏ đau khổ bằng cách thờ ơ với mọi sự kiện bên ngoài.
Bất chấp nỗ lực giảm thiểu đau khổ của hai triết lý, cả Chủ nghĩa Khắc kỷ và Chủ nghĩa Phật giáo đều không coi đau khổ là một điều xấu. Phật hiểu rằng tất cả cuộc sống là đau khổ và sống là để đau khổ; Trong khi các nhà Khắc kỷ đã dạy rằng đau khổ làm nên con người của chúng ta, và việc chịu đựng đau khổ của một người một cách xứng đáng là một điều tuyệt vời.
Nếu bạn bị đau, một người theo phái Khắc kỷ sẽ cho bạn biết rằng nỗi đau của bạn là có thật, nhưng nỗi đau của bạn chỉ là do bạn phán đoán về nỗi đau. Hãy xem đó là điều tốt, vì đó là cơ hội để tích đức, và nó giúp bạn mạnh mẽ hơn. Nếu bạn không thể chịu đựng nó, nó sẽ lấy đi mạng sống của bạn, vì vậy hãy làm hòa với nó, và nó sẽ không làm phiền bạn.
"Người khôn ngoan chấp nhận nỗi đau của mình, chịu đựng nó, nhưng không làm quá nó lên." - Marcus Aurelius.
Một Phật tử sẽ nói với bạn rằng nỗi đau của bạn là có thật, nhưng bạn chỉ đau khổ bởi vì bạn mong muốn không bị đau. Từ bỏ mong muốn đó và đau khổ biến mất. Đau đớn chỉ kéo dài trong giây lát, chính xác hơn là khoảnh khắc cụ thể này mà bạn đang sống. Vì vậy, hãy sống với nỗi đau chỉ trong giây phút này, và bạn sẽ có thể chịu đựng nó mãi mãi.
Theo một nghĩa nào đó, Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo đều đối phó với đau khổ bằng cách hiểu vai trò của nó trong cuộc sống và sống hòa bình với nó.
Sống trong khoảnh khắc
Không có gì cần bàn cãi khi sống trong chánh niệm là một phần thiết yếu của Phật giáo. Nếu bạn đang thực sự sống trong từng phút giây trôi qua, bạn không thể có ham muốn. Bởi vì có một mong muốn là tưởng tượng có một cái gì đó bạn không có, điều này trái ngược với sống trong chánh niệm.
Tuy nhiên, đừng ngạc nhiên khi một người theo phái Khắc kỷ đặt tầm quan trọng không kém vào thời điểm hiện tại. Như đã đề cập, một phần cơ bản của Chủ nghĩa Khắc kỷ là tập trung vào những gì bạn có thể kiểm soát trong cuộc sống và không để những gì nằm ngoài tầm kiểm soát của bạn làm phiền bạn.
Chà… quá khứ chắc chắn nằm ngoài tầm kiểm soát của bất kỳ ai. Những gì đã xảy ra đã xảy ra rồi, không có ích lợi gì cho nó. Tương lai cũng vậy, những gì chưa xảy ra cũng không nằm trong tầm kiểm soát của bạn. Điều duy nhất bạn có thể kiểm soát là cách bạn sống trong hiện tại.
Dưới đây là một câu trích dẫn từ nhà khắc kỷ Seneca the Younger, gói gọn tuyệt vời cả ý tưởng của Chủ nghĩa Khắc kỷ và Buddism về cách sống trong thời điểm hiện tại: "Hạnh phúc đích thực là tận hưởng hiện tại, không lo lắng phụ thuộc vào tương lai, không phải nuôi dưỡng bản thân với hy vọng hay sợ hãi mà là để hài lòng với những gì chúng ta có, đó là đủ, đối với tha nhân thì cũng không muốn gì cả." - Seneca.
Không ngừng phát triển
Lý do mà cả Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo vẫn đang thu hút nhiều tín đồ và hành giả hơn 2.000 năm sau khi ra đời, là vì cả hai đều là những triết lý thực tế giúp con người sống tốt hơn. Mặc dù cả hai triết lý đều được định hướng xung quanh việc sống một cuộc sống tốt đẹp bằng cách thay đổi cách suy nghĩ trước tiên, nhưng đó vẫn là một mục tiêu đòi hỏi hành động liên tục.
Đạo Phật có Bát Chánh Đạo, ít nhiều trình bày một con đường và lối sống rõ ràng để người ta noi theo. Trong khi Chủ nghĩa Khắc kỷ có 4 Đức tính Khắc kỷ, đó là những nguyên tắc mà người ta có thể tuân theo bằng cách tập trung vào những điều có thể kiểm soát được trong cuộc sống.
Rõ ràng là Chủ nghĩa Khắc kỷ và Phật giáo có nhiều điểm chung. Cả hai đều là những triết lý sống đẹp đẽ đã giúp vô số người có cuộc sống tốt đẹp hơn. Để rút ra bài học từ Zeno và Phật, chúng ta nên tiếp thu những phần tốt nhất của cả hai triết lý và kết hợp nó với những quan điểm độc đáo của riêng chúng ta về cuộc sống. Sau đó hãy sống hết lòng vì nó.
Nếu bạn là một sinh viên của trường phái Khắc kỷ, hãy thử một số phương pháp thực hành Phật giáo, chẳng hạn như thiền định và chánh niệm. Những lợi ích khoa học chắc chắn là không thể chối cãi. Và ngược lại, nếu bạn là một Phật tử, tại sao không tìm hiểu những lối sống tích cực của một người khắc kỷ thông qua cuốn sách Chủ nghĩa khắc kỷ - Từ tự chủ đến bình an - Hiểu đúng về đức hạnh của người Khắc kỷ.