Có rất nhiều người quê Quảng Ngãi ở nhiều thế hệ đã yêu và thuộc thơ Tế Hanh. Không phải thi sĩ nổi tiếng nào cũng có cái may mắn như vậy: thơ của họ được yêu thích ngay trên quê hương mình. Không hẳn vì thơ Tế Hanh viết nhiều về quê hương ông:
Làng tôi ở vốn làm nghề chài lưới
Nước bao vây cách biển nửa ngày sông
Những bài thơ ấy viết về quê hương Bình Dương, Bình Sơn, Quảng Ngãi đã khiến Tế Hanh nổi tiếng và được mến mộ trên khắp đất nước này.
Nhưng không chỉ có vậy.
Thơ Tế Hanh thuyết phục người Quảng Ngãi chính bởi hồn thơ ông vô cùng thuần phác: đó là tâm hồn của một người dân quê Quảng Ngãi. Vì những lý do lịch sử, địa lý và những gì khác nữa, mà tâm hồn người Quảng Ngãi đặc biệt thuần phác. Tâm hồn ấy có thể mãnh liệt, có thể cực đoan, và đôi khi có thể tinh tế, nhưng cái nổi bật nhất của nó là sự thuần phác, ngây thơ, nghiêng hẳn về nội cảm, một nội cảm nhiều khi cô đơn, nhiều khi tủi thân, và cũng nhiều khi đầy một cảm giác bơ vơ:
Chim bay về núi tối rồi
Không cây chim đậu không mồi chim ăn
Đó là ca dao. Còn với thơ Tế Hanh, lại là :
Tôi con đường nhỏ chạy lang thang
Kéo nỗi buồn không dạo khắp làng
Hay:
Tôi thấy tôi thương những chiếc tàu
Ngàn đời không đủ sức đi mau
Có chi vương víu trong hơi máy
Mấy chiếc toa đầy nặng khổ đau
Không phải vì mấy câu thơ ấy của Tế Hanh mà người ta nảy ra sáng kiến làm đường sắt cao tốc, nhưng mấy câu thơ ấy bộc lộ một khía cạnh tình cảm của người Quảng Ngãi: rất dễ mủi lòng, dễ thương thân:
Sầm Sơn có những cặp bên nhau
Mắt trong mắt, tay trong tay, âu yếm
Sao ta vẫn một mình với biển
Em ở đâu rồi, em ở đâu ?
Và :
Anh nhìn giếng giếng sâu trong vắt
Nước như gương soi lẻ bóng hình anh
Luôn nhìn mặt nước thành mặt gương soi, đó là cảm thức của một người cô đơn, một cảm thức bơ vơ tự nguồn.
Cảm giác ấy trong thơ Tế Hanh là cảm giác của một đứa trẻ, nó trong trẻo và buồn dịu nhẹ, nhưng đôi khi day dứt. Đó cũng là một cảm giác của nhiều người Quảng Ngãi khi phải xa cách quê hương mình. Bây giờ, đang thời dịch bệnh COVID-19 này, ta cứ thử đọc một đoạn thơ về tình cảm, về quê hương nào đó của Tế Hanh cho những người quê Quảng Ngãi đang bị tắt nguồn bôn ba lặn lội kiếm sống cực nhọc tại Sài Gòn, những người muốn hồi hương mà không thể về quê được, tôi bảo đảm họ sẽ oà lên khóc. Thơ Tế Hanh là viết cho những con người ấy, là dành cho họ, chứ không dành cho những ai no cơm ấm cật, vô cảm với đồng loại hay với quê nhà. Có lẽ sau khi Tế Hanh đã đi xa mãi mãi, mà ta cảm thấy thơ ông ngày càng gần gũi với người Quảng Ngãi nói riêng, và người dân Việt nói chung. Tế Hanh làm thơ dễ dàng như giọng nói của ông, đó là một chất giọng nhỏ nhẹ, miên man như nước sông trôi chảy và đậm đặc âm sắc Quảng Ngãi. Suốt đời, dù sống ở Hà Nội lâu hơn ở quê nhà, Tế Hanh vẫn giữ nguyên giọng nói của người Quảng Ngãi, không một chút pha trộn. Hãy nghe trong chất giọng mộc mạc ấy cái tình của người Quảng Ngãi, nó sâu đậm và thảng thốt hơn là ta tưởng:
Chiêm bao bừng tỉnh giấc
Biết là em đã xa
Trên tường một tia nắng
Biết là đêm đã qua ”
Sự giản dị đến tinh lọc đã khiến thơ Tế Hanh thoạt đọc thoạt nghe tưởng như không có gì, nhưng khi ngẫm lại, từng trải qua, thấm thía với, ta mới cảm nhận được chiều sâu của nó. Đó là chiều sâu của một lòng sông nước xanh đậm, của một cái giếng đá ong mà ta không nhìn được thấu đáy. Thơ Tế Hanh dễ dàng, bộc lộ, thân thiện nhưng không phải loại thơ phân tích, thơ cấu trúc, thơ biểu tượng. Thơ ấy không làm cho ai choáng ngợp. Vậy mà không phải dễ để ta có thể cảm nhận nó, thấu suốt nó hoàn toàn. Vì đó là thơ nội cảm, nó như mặt nước luôn bị rung nhoè, khó nắm bắt dù rất gần gũi. Mỗi nhà thơ lớn đều có những đóng góp rất riêng của mình cho Thơ nói chung. Tế Hanh góp cho thơ tiếng nói nhỏ nhẹ của tâm hồn ông, tâm hồn của một đứa trẻ nhà quê không bị tàn phá bởi cuộc sống đô thị:
Phố này anh đến tìm em
Người qua lại tưởng anh tìm bóng cây
“Người qua lại” ấy là người của đô thị, của thành phố, họ không thể nào biết đứa bé nhà quê kia đang tìm cái gì, mơ tưởng đến cái gì. Có phải vì vậy mà khi Hà Nội trở nên quá đỗi xô bồ, kinh tế thị trường, Tế Hanh đã lặng lẽ nằm và im lặng. Đứa trẻ trong ông đã tự thu mình lại, chìm sâu mãi vào giấc mơ riêng của nó. Một giấc mơ lặng lẽ đến 10 năm.