Tang lễ cho cá voi
Tôi được biết rằng ngư dân Việt Nam xem trọng tất cả các loài cá voi, nhưng chỉ thờ cá Chuông (vì hình dáng giống quả chuông) hay cá nhà táng. Nếu một con cá voi dạt vào bờ và bị mắc cạn, dân vạn chài sẽ làm mọi cách có thể để giải cứu nó. Nếu cá chết, dân làng sẽ đối xử với cái xác hết sức tôn kính và sau đó sử dụng bộ xương của nó để lập đền thờ. Nói chung, ngư dân sẽ tổ chức tang lễ cho con cá voi đó, đặt xác nó trong một tấm vải liệm và chôn cất nó một cách thành kính. Sau này, bộ xương sẽ được đào lên, làm sạch cẩn thận và đặt trong đền hoặc miếu để thờ cúng.
Đối với ngư dân Việt Nam, họ tin rằng nếu không làm như vậy thì họ có thể gặp phải những điều xui rủi như lưới rách, đánh bắt không được, tàu thuyền hỏng máy, bão, thậm chí là bệnh tật.
Nghiên cứu đáng tin cậy của Lantz tiết lộ rằng cá Ông là biểu tượng của nỗi khiếp sợ lẫn lòng tôn kính. Dĩ nhiên, những con cá voi sống cũng được kính trọng. Những người theo tục thờ cá Ông chưa bao giờ săn bắt các sinh vật biển to lớn này – những động vật thuộc lớp thú mà họ xem là những con cá khổng lồ. Xác của những con cá voi chết tự nhiên được chôn cất với lòng thành kính cùng nhiều nghi lễ. Sau ba đến năm năm, xương của những con cá voi đó sẽ được khai quật (một hình thức cải táng), khâm liệm và đem về đền hoặc miếu để thờ phụng, như thể những sinh vật này là một phần của cộng đồng.
Tang lễ cho cá voi luôn thu hút đông đảo người dân. Hiến pháp Việt Nam bài trừ “mê tín dị đoan” nhưng tục thờ cúng cá voi đã ăn sâu vào văn hóa nước này.
Sự tôn sùng này dẫn đến việc nhiều đền chùa ra đời, trong đó có chùa Hải Tạng trên Cù Lao Chàm, một ngôi chùa nhỏ tuyệt đẹp được xây dựng cách nay hơn 250 năm tại một thung lũng nhỏ yên bình với những cánh đồng lúa và nhiều loại rau được trồng gần đó. Trên cả nước, có hàng chục đền chùa miếu mạo đã được xây dựng riêng cho việc thờ cúng những con cá voi chết vì nguyên nhân tự nhiên và bị trôi dạt vào bờ biển.
Các ngư dân kể lại bằng giọng điệu từ tốn và thái độ tôn kính những câu chuyện thần thoại đậm chất văn hóa của họ, cũng như những câu chuyện về những lần cá voi hoặc cá heo lớn cứu mạng họ khi họ đánh bắt xa hòn đảo quê hương, thậm chí là đẩy thuyền của họ về nơi an toàn trong một cơn bão di chuyển nhanh. Vì cá voi không bao giờ bị săn bắt ở Việt Nam nên nhiều giai thoại đã ra đời, ví dụ như chuyện vua Gia Long (trị vì từ năm 1802 đến năm 1820) sắc phong cá voi là “Nam Hải Đại tướng quân”. Trong lịch sử gần đây, các nghi lễ đã được tổ chức trên bãi biển để mang lại niềm vui cho cư dân địa phương và để cầu mong một mùa đánh bắt thành công.
Mỗi giọt nước, mỗi hơi thở hít vào, ta đều kết nối với biển cả
Các học giả như cố Giáo sư Trần Quốc Vượng lập luận rằng quá trình dựng nước của Việt Nam từ “thuở sơ khai đã gắn bó mật thiết với nước. Chúng ta có thể dễ dàng tìm thấy lịch sử liên quan đến nước trong thần thoại, các câu chuyện lịch sử, chuyện cá nhân và truyền miệng dân gian về thời kỳ này”.
Giáo sư Vượng muốn xác định một hình mẫu tư duy liên quan đến biển đã mang đến cho người Việt thứ bản sắc đa sắc tộc tuy dựa trên văn hóa cổ xưa nhưng vẫn có ý nghĩa và sức ảnh hưởng đối với toàn thể người Việt ngày nay, và đó chính là tình yêu của họ đối với Biển Đông cũng như đối với ngư dân.
Một số ngư dân lớn tuổi đang ngồi trong quán cà phê gần đó, bên cạnh khu chợ của người địa phương và trông ra bến tàu nguyên sơ của Cù Lao Chàm, nơi có những rạn san hô nhiều màu sắc dưới mặt nước. Họ kể cho tôi nghe về việc cá voi sống trong bóng tối đen đặc phần lớn cuộc đời nó, nhưng đồng thời cũng quả quyết với tôi rằng những sinh vật vĩ đại này đã cung cấp cho họ nhiều kiến thức về dòng chảy của sự sống ở đại dương.
Qua nhiều thế kỷ, đại dương đã sản sinh ra nhiều huyền thoại, truyền thuyết và sự kiện mà con người vẫn chưa hiểu rõ. Thậm chí, nhà sử học Hy Lạp cổ đại Plutarch từng viết: “Đối với riêng cá heo, vượt xa tất cả những loài khác, thiên nhiên đã ban tặng cho chúng thứ mà các nhà triết học lẫy lừng nhất tìm kiếm: tình bạn không vụ lợi. Mặc dù nó không cần con người, nó vẫn là bạn của mọi người và thường xuyên giúp đỡ họ rất nhiều”.
Biển Đông có hơn 73.000 hòn đảo với các quần đảo xa bờ như Hoàng Sa và Trường Sa, nơi có môi trường biển đặc thù với các rạn san hô vòng (atoll) ngập nước. Các rạn san hô vòng này đôi khi có một số phần nổi lên, nhưng luôn đi liền với một đầm nước lặng gọi là vụng biển và những cấu trúc sâu trong lòng đại dương kết nối các rạn san hô nằm rải rác thông qua các dòng hải lưu. Các vụng biển này chính là nơi chứa các chất dinh dưỡng cần thiết cho quá trình sản xuất sinh học cũng như là nơi cư trú của các loài sinh vật biển.
Trong quyển Biển Việt Nam và các mối giao thương biển, Giáo sư Nguyễn Văn Kim – giám đốc Trung tâm Biển và Hải đảo thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội – đã viết rằng biển là điểm xuất phát, cũng là nhà của nhiều nhân vật huyền thoại trong ký ức của người Việt Nam. Trong công trình của ông có một nghiên cứu về tác phẩm bán hư cấu Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp, ra đời ở Việt Nam vào thế kỷ 14. Theo tuyển tập truyện này, thần biển Lạc Long Quân đã giúp đỡ ngư dân và thuyền buôn trên biển chống lại thủy quái (Ngư Tinh) – loài thủy quái trông như một con cá khổng lồ ở Biển Đông.
Tương truyền, khi có thuyền chở hàng hoặc thuyền đánh cá đi ngang qua, con quái vật sẽ quẫy đuôi tạo nên những đợt sóng lớn khiến thuyền bị lật úp. Lạc Long Quân đã hóa thân thành thuyền buôn và đến nơi Ngư Tinh thường lui tới. Khi Ngư Tinh định nuốt lấy con thuyền, Lạc Long Quân đã dùng thanh sắt đang cháy và gươm thần để tiêu diệt nó.
Người Việt Nam sống ở các vùng duyên hải biết ơn biển đã cho họ nguồn sống. Chính niềm tin của họ về sức mạnh của đại dương đã dẫn đến sự xuất hiện của chủ nghĩa hiện thực kỳ ảo. Một tài liệu viết bằng tiếng Chăm vào thế kỷ 17 ở miền Trung Việt Nam ghi lại rằng trong hành trình trở về từ vùng Kelantan (ngày nay là tên một bang của Malaysia, nằm về phía đông bắc bán đảo Mã Lai) sau một thời gian nghiên cứu phép thuật Mã Lai, một người đàn ông địa phương đã chết đuối khi thuyền của anh ta bị đắm trong một trận bão. Phát hiện ra thi thể trôi dạt, một con cá voi đã đưa xác anh ta vào bờ và được dân làng sùng kính.
Các quốc gia có yêu sách ở Biển Đông cần học hỏi ít nhiều từ lịch sử, huyền thoại và việc áp dụng khoa học của Cù Lao Chàm, vì mối quan hệ có giá trị giữa họ với đại dương sẽ được kết nối với tín ngưỡng xa xưa, huyền thoại và hệ sinh thái biển bền vững. Những cư dân trên đảo thực chất đã thực hành điều mà Tiến sĩ Sylvia Earle, nhà khoa học biển huyền thoại từng là khoa học gia trưởng của Cơ quan Khí quyển và Đại dương Quốc gia Mỹ (National Oceanic and Atmospheric Administration – NOAA), tin tưởng: “Với mỗi giọt nước ta uống, mỗi hơi thở ta hít vào, ta đều kết nối với biển cả”.
James Borton - Xoay chuyển tình hình Biển Đông