Ngày 23, tôi nhận được chỉ thị phải ra căn cứ gấp. Cấp trên cũng cho quy ước bắt liên lạc tại một rạp chiếu bóng ở Mỹ Tho vào các ngày lẻ 25, 27, 29... Nhận được chỉ thị này tôi thấy rất tiếc là mình không được hoạt động cho đến ngày thắng lợi cuối cùng mà lúc bấy giờ đang là thời kỳ hấp hối của địch.
Tổng tham mưu trưởng chưa đọc mà Hà Nội đã biết
Hôm đó, tôi vẫn tìm hiểu tin tức ở Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo và Bộ Tổng tham mưu, nhưng không thấy động tĩnh gì hết. Buổi tối, tôi còn đến nhà luật sư Đặng Thị Tám trong nhóm của Trần Quốc Bửu gặp một người Israel đến theo lời mời của bà Tám để nghe người này trình bày về dự kiến thành lập làng Kibud (làng tổ chức theo kiểu Do Thái).
Hôm sau, tôi lại nhà Vũ Văn Nho, Trưởng phòng 2 Bộ Tổng tham mưu. Ông Nho là chỗ bạn bè mà tôi thường hay lui tới để nắm tình hình. Vũ Văn Nho bảo với tôi: ‘Trong Bộ Tổng tham mưu có phản gián của Việt Cộng’. Ông ta nói có lẽ vì thấy người này là người chống Cộng vào loại đáng sợ nên phản gián của Việt Cộng muốn thanh toán ông ta bằng cách đưa tài liệu của ông ta ra cho chính An ninh bắt. Đại tướng Cao Văn Viên đã gọi ông ta tới văn phòng, đập bàn hét: ‘Tài liệu của Bộ Tổng tham mưu, Tổng tham mưu trưởng chưa đọc, mà Hà Nội đã đọc rồi!’. Cao Văn Viên nghi thủ phạm chính của vụ này là Vũ Văn Nho. Kể chuyện xong, Nho bảo với tôi: ‘Hai bữa nữa anh lại đây tôi sẽ cho anh biết thủ phạm của vụ này là ai’”.
Ông Ba Quốc nhớ lại: “Nghe Vũ Văn Nho nói như vậy là sự việc đã về tới Bộ Tổng tham mưu, nhưng chúng chưa tìm ra được thủ phạm. Song chắc chắn chúng sẽ tìm ra tôi. Thực ra tài liệu đó là những Hồ sơ trận liệt do trung úy Vũ Văn Mùi đưa cho tôi chứ không phải từ Vũ Văn Nho.
Những tài liệu đó do ông Mùi in, cứ in được tới đâu giao cho tôi tới đó chứ không giao luôn một đợt, còn với Tổng tham mưu trưởng thì phải chờ in đủ một đợt mới trình lên, do vậy mà bao giờ tôi cũng có tài liệu trước ông Cao Văn Viên.
Tất nhiên ông Mùi không nghĩ tôi là Việt Cộng, ông ta chỉ nghĩ tôi lấy tài liệu cho Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo thôi. Hằng tháng tôi trích một phần tiền lương của tôi để trả công cho ông ta. Khi biết bị lộ rồi, tôi tới báo tin cho ông Mùi rằng tôi bận đi miền Tây mấy ngày về vụ Hòa Hảo, dặn ông ta đừng mang tài liệu ra, đợi tôi về hẵng hay”.
“Lúc đó ông đi ngay về căn cứ hay còn làm gì nữa?”, chúng tôi hỏi. Ông Ba Quốc: “Chưa. Tôi phải làm vài việc nữa. Thứ nhất là tôi đến gặp một số chính khách có thiện cảm với cách mạng, mục đích là để sau này móc nối làm việc. Đó là các ông Thái Lăng Nghiêm, nghị sĩ - Vũ Văn Vị, lãnh tụ Duy Tân - Phan Bá Cầm, lãnh tụ Dân chủ Xã hội - Vương Ngọc Các, con rể nguyên Thủ tướng Lê Văn Hoạch - luật sư Trần Văn Tuyên - Nguyễn Văn, người của thượng tọa Trí Quang - Vũ Công Minh, dân biểu...
Việc thứ hai là tối hôm đó tôi dặn vợ con tôi cách khai báo với địch. Trước hết khai rằng tôi báo với gia đình đi công tác một tháng. Cả nhà lớn nhỏ người nào thấy tôi làm gì từ trước đến nay đều khai hết và khai đúng sự thật, không giấu giếm bất cứ thứ gì, nhưng chỉ biết tôi làm cho Phủ Đặc ủy Trung ương Tình báo, dứt khoát không nói biết tôi làm cho cách mạng”.
“Sau đó ông đi luôn?” “Vẫn chưa, sáng hôm sau tôi đến Phủ Đặc ủy làm việc bình thường. Đến một lúc, tôi dặn nhân viên của tôi có ai hỏi thì bảo tôi sang chỗ linh mục Hoàng Quỳnh và đi bằng xe của Hoàng Quỳnh đến đón. Dặn xong tôi mới đi đến địa điểm hẹn với giao thông. Sở dĩ tôi phải dặn như vậy là để đề phòng trường hợp tôi không đi được phải trở về. Và bữa đó không bắt được liên lạc, tôi phải trở về thật. Sáng ngày 27-5, tôi lại đến điểm liên lạc thường trực, gặp chị giao thông và chị đã đưa tôi tới Mỹ Tho”.
Tập đi chân đất
9 giờ đã đến nơi rồi mà quy ước là 5 giờ chiều mới có liên lạc. Chúng tôi phải vào rạp xem ciné từ 9 giờ và ngồi xem mãi cho đến 5 giờ mới ra bắt liên lạc. Đến 8 giờ tối thì tôi được đưa về Cụm H67 (ông Ba Quốc thuộc Cụm Tình báo H67 của Cơ quan Tình báo Miền). Tôi được nghỉ tại đây khoảng một tháng để... tập đi chân đất, tập lội bùn, và về đến Cơ quan Tình báo Miền sau một tháng tám ngày bằng đường dây vũ trang.”
“Vì sao ông phải... tập đi?” Ông Ba Quốc cười: “Suốt hai mươi năm hoạt động ở Sài Gòn tôi chưa ra vùng giải phóng lần nào. Lần đầu tiên ngỡ ngàng lắm, phải tập thì mới đi được chứ!”.
Anh con trai của ông Ba Quốc kể: “Đợt chụp phim cuối cùng đó tôi còn nhớ, tôi chụp cái Hồ sơ trận liệt khoảng hơn 100 tờ, hết bốn cuộn phim, rồi chụp thêm bốn tờ giấy viết tay, rồi một bức thư nữa. Chụp xong, tôi đi đá banh. Mấy hôm sau, buổi chiều bố tôi về, tôi thấy ông có vẻ buồn. Tới tối, tôi nghe mẹ tôi nói: ‘Bố bị lộ rồi’. Hôm sau, trước khi đi bố tôi còn leo lên sửa lại mái nhà bị dột, dặn nếu có ai đến thì bảo bố không có nhà. Lúc đó ông Vũ Văn Mùi đến, gõ cửa hỏi: ‘Anh Tá có nhà không?’. Tôi bảo bố tôi không có nhà. Sau đó ông Mùi bị bắt. Bố tôi đi, bỏ chiếc xe Vespa và khẩu súng ru-lô lại. Chiều hôm đó tôi bắt đầu thấy có hiện tượng nhà tôi bị theo dõi. Cư xá chúng tôi ở lúc đó phần nhiều là dân của Phủ Đặc ủy, nhìn họ ngó ngó nghiêng nghiêng là biết ngay. Mấy ngày sau, vào lúc 12 giờ đêm, khi còi vừa hạ giới nghiêm xong là họ ập vào nhà rất đông.
Mặc dù đã chuẩn bị sẵn nhưng tôi cũng thấy rất hoảng vì họ đến đông quá. Họ bắt đầu xét nhà, toàn bộ đồ đạc giấy tờ liên quan đến bố tôi đều bị họ dồn vào giữa nhà. Đến khoảng 4 giờ sáng họ xuống nhà xe lục tiếp và tịch thu chiếc xe, tịch thu súng. Đến 4 giờ 30 sáng họ về. Họ đi rồi mẹ tôi bảo: ‘Thế nào chúng cũng quay lại bắt’”.
Anh con trai thứ ba của ông Ba Quốc kể tiếp: “Tôi có ba anh em. Tôi lúc đó chuẩn bị thi tú tài, anh trai tôi là sinh viên Đại học Phú Thọ, còn bé Hạnh, em gái tôi thì còn nhỏ. Trước khi đi, bố tôi bảo với tôi: ‘Chúng sẽ bắt mẹ con và bắt một trong hai đứa, tức là bắt người chụp hình. Con cứ nói thật là con chụp, còn hai ngón tay in dấu trên phim cũng cứ nói thật là của bé Hạnh’. Bố tôi dự đoán rất chính xác. Đến 6 giờ sáng, họ quay trở lại. Họ bảo bố tôi đang ở Phủ Đặc ủy, mời mẹ tôi và tôi lên gặp ông. Xe chạy ra đến đường Trần Quang Khải thì họ đưa băng đen bịt mắt mẹ con tôi lại, khi đến nơi họ tách mẹ con tôi ra”.