Nhiều người cho rằng Lê Văn Thịnh là Trạng nguyên đầu tiên ở nước ta vì ông là người đỗ cao nhất khoa thi đầu tiên ở nước ta được mở ra dưới thời Lý, năm 1075. Thế nhưng lúc đó, vua nhà Lý chưa đặt ra định chế tam khôi nên người đỗ đầu khoa thi này là Lê Văn Thịnh được gọi là Trạng nguyên hay chưa thì là vấn đề đáng bàn.
Tuy nhiên, chính sử chép Nguyễn Hiền mới là Trạng nguyên đầu tiên sau khi nhà Trần năm 1247 có quy định về tam khôi vì phải đến khoa thi năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 16 đời vua Trần Thái Tông (1247) mới đặt ra định chế tam khôi (3 vị trí đỗ đầu có tên gọi thứ tự là: Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa) thì mới có danh hiệu Trạng nguyên.
Đại Việt sử ký toàn thư mới chép: “Mùa xuân, tháng 2, mở khoa thi chọn kẻ sĩ. Ban cho Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên, Lê Văn Hưu đỗ Bảng nhãn; Đặng Ma La đỗ Thám hoa lang. Cho 48 người đỗ Thái học sinh, xuất thân theo thứ bậc khác nhau”.
Chuyện ai là Trạng nguyên đầu tiên ở nước ta cũng từng gây tranh cãi, kiện cáo. Hồi 2005, ông Lê Viết Nga, Giám đốc Bảo tàng tỉnh Bắc Ninh từng than thở việc bà con kiện vì dám nói Lê Văn Thịnh không phải là Trạng nguyên đầu tiên của nước ta.
Ông Nga giải thích: Lê Văn Thịnh sinh năm 1050 trong một gia đình khá giả ở trang Bảo Tháp - nay là thôn Bảo Tháp thuộc xã Đông Cứu. Lớn lên, khi nhà Lý mở kỳ thi Minh Kinh bác sĩ (1076), Lê Văn Thịnh đã đỗ đầu. Như vậy, về học vị của Lê Văn Thịnh, nếu gọi chính xác là người đỗ đầu trong khoa thi đầu triều thời Lý ở nước ta, chứ không nên gọi là Trạng nguyên vì khi đó chưa có danh vị này. Đến năm 1247, đời Trần mới đặt tam khôi.
Đồng thời, ông đưa ra giải thích cho sự hiểu lầm là: “Câu đối, hoành phi, đại tự đều theo cách gọi dân gian ghi Lê Văn Thịnh là Trạng Nguyên. Kể cả đền thờ Lê Văn Thịnh ở chính quê ông cũng thế, vì những chữ như "Lê Trạng nguyên cố trạch" hoặc "Khai quốc Trạng nguyên"... khiến người đời sau gọi không thật chính xác danh vị của cụ. Đây là điều thường thấy ở các di tích”.
Dù phủ nhận việc Lê Văn Thịnh là Trạng nguyên đầu tiên nhưng ông Nga khi đó cũng phủ nhận luôn việc Nguyễn Hiền là Trạng nguyên đầu tiên dù ông được đề cập đầu tiên trong cả Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Sử việt Thông giám cương mục.
Theo ông Nga (trả lời thời điểm 2005): “Đúng là năm 1247 mới có danh vị Trạng nguyên và Nguyễn Hiền là Trạng nguyên khoa thi năm này. Nhưng lịch sử khoa bảng lại tính Nguyễn Quan Quang là vị Trạng nguyên đầu tiên, bởi vì Nguyễn Quan Quang đỗ đầu khoa thi trước đó chỉ 1 năm (năm 1246), nên triều đình gọi luôn cả người đỗ đầu năm trước đó cũng là Trạng nguyên luôn”.
Tuy nhiên, cách giải thích này của ông Nga dựa trên suy luận, trong khi vấn đề này cần căn cứ vào nhiều tài liệu. Hơn nữa, theo Khâm định Sử việt Thông giám cương mục thì “Tháng 7, mùa thu (1246). Mới định niên hạn thi đại tị. Bấy giờ thi đại tị chưa định niên hạn, nay chuẩn định 7 năm một lần thi. Việc định niên hạn về khoa thi bắt đầu từ đấy”. Điều đó có nghĩa là năm 1246 mới ra quy định tổ chức 7 năm một lần chứ không phải tổ chức thi vào năm 1246. Nếu năm 1246 đã tổ chức thì phải 7 năm sau mới tổ chức, chứ không thể vừa quy định năm trước (1246) rồi năm sau (1247) đã phá bỏ thì rất không hợp lý. Do vậy, theo người viết thì chưa chắc đã tồn tại cuộc thi nào năm 1246 vì chính sử không chép điều này, tính hợp lý của sử liệu cũng phủ nhận chuyện này.
Đồng thời, ông Nga bổ sung thông tin: “Mặc dù là Trạng nguyên không chính thức, nhưng tất cả các sách đều ghi Nguyễn Quan Quang là Trạng nguyên một cách chính thức. Trong danh sách 47 vị Trạng nguyên treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám (Hà Nội) thì Nguyễn Quan Quang được ghi đầu tiên rồi sau đó mới là Nguyễn Hiền!”.
Thực tế chúng ta không biết “tất cả các sử sách” được ông Nga đề cập là sách nào trong khi hai sử liệu sơ cấp là Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Sử việt Thông giám cương mục chỉ nói đến Nguyễn Hiền đỗ Trạng nguyên năm 1246 chứ không đề cập đến Nguyễn Quan Quang.
Còn danh sách 47 vị trạng nguyên treo ở Văn Miếu - Quốc Tử Giám thì chúng ta cũng chưa rõ đây là danh sách ai lập và lập trong bối cảnh nào. Trong khi đó, các bia tiến sĩ Văn Miếu Thăng Long được dựng trong thời gian gần 300 năm (từ năm 1484 (niên hiệu Hồng Đức thứ 15) đến năm 1780 (niên hiệu Cảnh Hưng thứ 41), khắc các bài văn bia đề danh tiến sĩ Nho học Việt Nam của các khoa thi Đình từ năm 1442 (niên hiệu Đại Bảo thứ 3) đến năm 1779 lại không đề cập đến các kỳ thi thời Lý – Trần.
Thực tế, thông tin ít ỏi về thân thế và khoa cử của Nguyễn Quan Quang trích từ sách Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục còn gọi là Đỉnh khiết Đại Việt lịch triều đăng khoa lục là bộ sách gồm 4 quyển ghi lại các khoa thi Hội và danh sách những người đỗ đạt trong các khoa thi đó, bắt đầu từ khoa Ất Mão (1075) đến khoa Kỷ Hợi (1779). Đây là bộ sách in mộc bản hoàn thành vào năm Cảnh Hưng 40 (1779), do Vũ Miên, Phan Trọng Phiên và Uông Sĩ Lãng biên tập; Nguyễn Hoàn hiệu đính. Sách trở thành công cụ quan trọng để tra cứu các vị đỗ đại khoa cùng quê quán và khoa thi của họ đồng thời góp thêm tư liệu nghiên cứu về khoa cử ở nước ta.
Thông tin này cũng được ghi nhận trên văn bia số 1 tại Văn miếu Bắc Ninh. Theo đó, Nguyễn Quan Quang là người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn (thời Trần thuộc châu Vũ Ninh, lộ Bắc Giang; nay thuộc thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông thi đỗ Trạng nguyên khoa thi Bính Ngọ 1246, tức năm Thiên Ứng Chính Bình thứ 15 đời vua Trần Thái Tông, làm quan đến chức Bộc xạ, tặng hàm Đại Tư Không.
Tuy nhiên, văn bia đó thì các thông tin mang tính suy tôn của người đời sau chứ không phải là sự công nhận của đúng bối cảnh lịch sử.
Xin dịch Hán Việt đoạn đầu văn bia số 1 thế này:
"Bắc Ninh lịch triều đại khoa bi ký gia định kim gia bình tế giang kim văn giang thiện tài kim lương tài võ ninh kim võ giang an phu kim an phong tiên phúc kim đa phúc kim hoa kim kim anh an việt kim việt an tân phúc kim luân phúc.
Lý Đại Ninh Ất Mão khoa minh kinh bác học đệ nhất danh trạng nguyên Lê Văn Thịnh gia định đông cứu sĩ chí thái sư. Trần Kiến Trung Nhâm Thần khoa thái học sinh đệ tam giáp Trần Chu Phổ tế giang chu lương đại tư đồ phụ quốc công. Trần Thiên Ứng Bính Ngọ khoa trạng nguyên Nguyễn Quan Quang đông ngạn tam sơn phó xạ tặng đại tư không…”
Như vậy, theo văn bia này thì Nguyễn Quan Quang cũng không phải là Trạng nguyên đầu tiên mà phải là Lê Văn Thịnh. Cũng có thể vì văn bia này mà ông Nga bị dân Bắc Ninh năm 2005 chất vấn chuyện tại sao dám nói “Lê Văn Thịnh không phải Trạng nguyên đầu tiên của nước ta”.
Cũng có một số giai thoại về Nguyễn Quan Quang nhưng nhìn chung mang đậm tính chất dân gian mà ngay cả Đại Việt Sử ký toàn thư hay cà kê dã sử thời Lý Trần cũng không chép vào. Chẳng hạn:
“... Sinh ra trong một nhà nông nghèo, không đủ gạo tiền để theo học, nhưng với bản tính vốn ham học hỏi, Nguyễn Quan Quang thường lân la ngoài cửa lớp nghe thầy dạy bọn học trò trong làng học sách Tam tự kinh. Tuy chỉ nghe lỏm nhưng cậu bé Quan Quang ngồi ngay trước sân dùng gạch non (vì không có giấy mực đi học như bọn trẻ trong lớp) viết chữ xuống nền gạch. Nét chữ của cậu rất đẹp. Một hôm, tan buổi học, thầy đồ chợt nhìn thấy sân nhà có rất nhiều nét chữ như rồng bay, phượng múa. Thầy kinh ngạc và nói rằng: “Đây mới chính là trò giỏi”. Nói rồi, thầy cho gọi Quan Quang vào lớp và thu nhận làm học trò của thầy.
Nguyễn Quan Quang nổi tiếng thông minh học một biết mười. Chẳng bao lâu, ông đã thông kinh, thuộc sử, ứng khẩu thành thơ, luận bàn việc đời thông thái uyên thâm. Ông dự kỳ thi Hương, đậu luôn giải Nguyên. Đến kỳ thi Hội lại đỗ luôn Hội nguyên. Khi vua Trần Thái Tông mở khoa thi Đại tỉ Thủ sĩ, ông đậu luôn Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ nhất danh (tức Trạng nguyên). Người đương thời khi đó đều gọi Nguyễn Quan Quang là “ông Tam nguyên”.
Sau khi vinh quy bái tổ, Nguyễn Quan Quang vào chầu vua để ra mắt. Bấy giờ quân xâm lược Mông Cổ tiến đến biên giới, lăm le xâm lược nước ta. Vua Trần Thái Tông ra chiếu cử Nguyễn Quan Quang sang thượng nghị với giặc. Tên tướng giặc nổi tiếng là kiêu hùng, thâm thúy. Y cho rằng Trạng nguyên nước Việt đến là để mang ba tấc lưỡi thuyết khách, nên hắn bèn nghĩ cách phải dùng uy để trấn áp ông.
Nhân lúc đi qua ao bèo, tướng giặc Mông Cổ vớt một cây bèo lên, nắm gọn trong lòng bàn tay lại rồi bóp chặt. Lát sau, hắn mở lòng bàn tay ra chìa cho Nguyễn Quan Quang xem. Cây bèo đã nát vụn trong bàn tay hộ pháp của hắn. Tướng giặc cười sằng sặc vẻ rất đắc ý. Thâm ý của tướng giặc ngạo mạn trong hành động bóp nát cánh bèo là: dân nước Việt bé nhỏ chỉ như những cánh bèo non yếu ớt, đạo quân của hắn chỉ cần đánh khẽ sẽ tan như cánh bèo này. Quan Quang hiểu được thâm ý của y nên ông bèn nhặt ngay một hòn đá rất to và ném xuống giữa ao bèo. Bèo dạt nhanh ra thành một khoảng trống, nhưng chỉ ít lát sau, những cánh bèo lại tụ kín mặt ao, không còn thấy dấu vết của viên đá to đâu nữa. Xem hành động của Nguyễn Quan Quang, tên tướng giặc tái mặt vì đã hiểu rõ thâm ý đối đáp rất nhanh của vị Trạng nguyên trẻ nước Đại Việt rằng: nước Việt tuy nhỏ nhưng bao giờ cũng đoàn kết toàn dân để bảo vệ giang sơn. Không một sức mạnh nào có thể khuất phục được truyền thống yêu nước và đoàn kết ấy giống như ao bèo tụ lại sau khi bị ném đá.
Sau chuyện đó, viên tướng giặc đã hoãn binh mà không dám tiến quân sang xâm lược nước ta ngay” (hết trích).
Vì một nắm bèo mà tướng Nguyên Mông hoảng sợ rồi thu quân thì chắc chỉ tồn tại trong trí tưởng tượng. Cái vô lý của thuyết này là Nguyễn Quan Quang đỗ năm 1246 rồi về vinh quy bái tổ trong khi mãi đến 1257 chủ trại Quy Hóa là Hà Khuất sai chạy trạm tâu vua là có sứ Nguyên sang.
Do vậy, nếu suy tôn Trạng nguyên đầu tiên ở nước ta thì có thể là Lê Văn Thịnh (Bắc Ninh) hay Nguyễn Hiền (Nam Định) thì thuyết phục hơn.