Giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức vào mùng 10.3 âm lịch hàng năm và năm nay rơi vào ngày 21.4 dương lịch. Câu hỏi được nhiều người quan tâm nhất ngày là Vua Hùng họ gì và vì sao giỗ ngày 10.3?
Vua Hùng họ Lộc?
Vào thời kỳ Hồng Bàng, truyền thuyết và dã sử cho rằng bắt đầu từ năm 2879 TCN, là niên đại vua Kinh Dương Vương, với quốc hiệu Xích Quỷ. Địa bàn của quốc gia dưới thời vua Kinh Dương rộng lớn, phía bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành), phía đông là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía tây là Ba Thục (Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay).
Theo Đại Việt sử ký toàn thư: Vua Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, đến núi Ngũ Lĩnh (nay thuộc tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc), gặp một nàng tiên, lấy nhau đẻ ra người con tên là Lộc Tục. Sau Đế Minh truyền ngôi lại cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Bắc), phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam (từ núi Ngũ Lĩnh về phía Nam), xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỉ.
Kinh Dương Vương làm vua Xích Quỉ vào năm Nhâm Tuất 2897 TCN, lấy con gái Động Đình Hồ quân (còn có tên là Thần Long) là Long nữ đẻ ra Sùng Lãm, nối ngôi làm vua, xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai (con của Đế Nghi), tên là Âu Cơ, đẻ một lần trăm người con trai. Một hôm, Lạc Long Quân bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền biển (có bản chép là về Nam Hải), phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua.
Theo thuyết này, người ta cho rằng từ Lạc Long Quân về sau, nước Xích Quỉ được chia ra thành những nước nhỏ, gọi là Bách Việt, dù điều này không có ghi chép lịch sử xác nhận.
Đầu thời kỳ đồ đồng, người Việt gồm khoảng 15 nhóm Lạc Việt khác nhau sống trên vùng núi miền Bắc và miền châu thổ sông Hồng và hơn 12 nhóm Âu Việt sống ở vùng Đông Bắc. Để tiện việc trao đổi buôn bán, phòng chống lụt lội, chống lại kẻ thù,… những bộ lạc Lạc Việt dần được gom lại thành một nước lấy tên Văn Lang và người đứng đầu tự xưng là Hùng Vương.
Có ít nhất 18 đời Hùng Vương cai trị trong thời đại Hồng Bàng, cho đến năm 258 TCN. Các thông tin về các đời vua Hùng dựa nhiều trên các truyền thuyết. Cũng có nhiều bằng chứng khảo cổ học như trống đồng Đông Sơn được tìm thấy ở miền bắc Việt Nam có cùng niên đại với thời kỳ Hồng Bàng, thể hiện một nền văn hóa đồ đồng rất phát triển (văn hoá Đông Sơn).
18 đời Vua Hùng gồm:
1. Hùng Vương (tức Kinh Dương Vương – Lộc Tục)
2. Hùng Hiền (tức Lạc Long Quân – Sùng Lãm)
3. Hùng Lân
4. Hùng Việp
5. Hùng Hy (Hi)
6. Hùng Huy
7. Hùng Chiêu
8. Hùng Vỹ (Vĩ)
9. Hùng Định
10. Hùng Hy (Hi)
11. Hùng Trinh
12. Hùng Võ
13. Hùng Việt
14. Hùng Anh
15. Hùng Triều
16. Hùng Tạo
17. Hùng Nghị
18. Hùng Duệ
Như vậy, Vua Đế Minh (không rõ tên họ), sinh ra Lộc Tục (làm vua hiệu là Kinh Dương Vương), Lộc Tục sinh ra Sùng Lãm (làm vua hiệu là Lạc Long Quân). KTS. Lê Minh Hưng mới suy luận là tên họ và hiệu khi làm vua là không giống nhau. Ví dụ: Nguyễn Huệ (họ Nguyễn, có anh là Nguyễn Nhạc), làm vua lấy hiệu là Quang Trung, nên tạm cho rằnghọ của Vua Quang Trung là Nguyễn.
Do đó, Vua Hùng đầu tiên của nước ta – hiệu khi đăng quang là Kinh Dương Vương – có tên họ Lộc Tục nên họ sẽ là Lộc.
Có người sẽ hỏi, con của Lộc Tục tại sao không phải là Lộc Lãm mà là Sùng Lãm? Lý do rất đơn giản: Vì ngày xưa theo chế độ Mẫu hệ, con lấy họ mẹ chứ không lấy họ cha.
Tuy nhiên, KTS. Lê Minh Hưng lại suy luận tiếp nhưng có thể không chính xác rằng, sau khi được cha chia ra 2 cõi riêng biệt trị vì Bắc-Nam, Kinh Dương Vương muốn tạo nên một triều đại mới của mình, nên mới đặt thêm danh xưng vương mới là Hùng Vương, bắt đầu bằng chữ Hùng.
Giống như trong cách đặt tên của vua Minh Mạng – bài Đế Hệ Thi – sau này vậy: Miên, Hồng, Ưng, Bửu, Vĩnh – Bảo, Quý, Định, Long Trường – Hiền, Năng, Kham, Kế, Thuật – Thế, Thoại, Quốc, Gia, Xương. Bài thơ có 4 câu, mỗi câu 5 chữ, mỗi chữ là tên đầu chứ không phải họ cho một ông vua kế vị, nên sau Hùng Vương thì có: Hùng Hiền, Hùng Lân, Hùng Việp… (các đời Vua Hùng tiếp theo).
Vậy Hùng là tên đầu chứ không phải họ của 18 đời Vua Hùng.
Tóm lại, theo những suy luận của KTS. Lê Minh Hưng, họ của Vua Hùng đầu tiên chính là: Lộc.
Câu trả lời còn lại xin nhường cho các nhà nghiên cứu sử học với những dẫn chứng chính xác mang tính học thuật hơn…
Có 18 đời Vua Hùng, vậy 10.3 là giỗ ai?
Vào ngày Giỗ tổ, người người nô nức hướng về Đền Hùng thắp hương để tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc. Nhưng cụ thể là giỗ ai, chưa chắc đã có người biết.
Giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là lễ hội Đền Hùng là dịp lễ quốc gia nhằm tưởng nhớ và bày tỏ lòng biết ơn của con cháu Đại Việt trước công lao dựng nước của các Vua Hùng.Cứ vào ngày mùng 10 tháng 3 âm lịch là người người lại nô nức hướng về Đền Hùng để dâng lễ, thắp hương, bày tỏ lòng thành kính và tưởng nhớ về cội nguồn dân tộc.
Nhưng theo truyền thuyết thì nước ta có 18 đời Vua Hùng. Mỗi đời vua được tính là một triều đại, tương tự như nhà Lê, nhà Nguyễn sau này và có thể có 1 hoặc vài chục vị vua. Do đó, tuy chỉ có 18 đời Vua Hùng, nhưng lịch sử ghi nhận vào thời kỳ này nước ta có đến 108 vị vua.
Rõ ràng Giỗ tổ Hùng Vương chỉ có một ngày, vậy là giỗ vua nào? Đây là một câu hỏi nhiều người vẫn thắc mắc.
Đầu tiên phải nói đến nguồn gốc của dân tộc Việt Nam. Truyền thuyết kể rằng Kinh Dương Vương lấy Long Nữ sinh ra Lạc Long Quân. Lạc Long Quân sau đó kết duyên cùng Âu Cơ sinh ra Hùng Vương.
Hùng Vương như vậy là cháu đích tôn của Kinh Dương Vương, là niên hiệu được dùng cho hàng chục triều vua tiếp sau đó. Giỗ tổ vì vậy theo logic thì phải là giỗ Tổ Kinh Dương Vương, để tưởng nhớ vị tổ phụ đã khai sinh ra đất nước.
Trên thực tế theo một số tài liệu lịch sử ghi lại, ngày giỗ tổ đã có từ cách đây 2.000 năm. Dưới thời Thục Phán – An Dương Vương, cột đá thề đã được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, ghi rõ: "Nguyện có đất trời lồng lộng chứng giám, nước Nam được trường tồn lưu ở miếu Tổ Hùng Vương, xin đời đời trông nom lăng miếu họ Hùng và gìn giữ giang sơn mà Hùng Vương trao lại; nếu thất hẹn, sai thề sẽ bị gió giăng, búa dập".
Các đời vua khác sau này cũng luôn ghi nhớ, khẳng định vai trò của thời đại các Vua Hùng đã xây dựng giang sơn. Vì thế, hàng năm luôn để một ngày để tưởng nhớ những người đã xác lập và xây dựng lên đất nước - các Vua Hùng nói chung.
Vìsao giỗ Vua Hùng ngày 10.3?
Liệu ngày 10.3 có phải là ngày mất của tất cả các vị Vua Hùng? Đương nhiên là không thể nào.
Trước đây, người dân không có tục đi lễ vào ngày 10.3, thường tự chọn ngày tốt theo bản mệnh của từng người và nô nức đến lễ bái các vua Hùng suốt năm. Thời điểm đông nhất thường rơi vào các tháng xuân - thu chứ không định rõ ngày nào.
Lễ cúng Tổ ở địa phương thì lại được cử hành vào ngày 12.3 âm lịch kết hợp với thờ Thổ kỳ. Thường khi con cháu ở xa về sẽ làm giỗ trước một ngày chứ không mở hội lớn với quy mô toàn quốc.
Như vậy, thời gian lễ bái thường kéo dài liên miên, vừa tốn kém tiền của lại không bày tỏ được rõ lòng thành kính, không tập hợp được lòng dân.
Nhận thấy điều này, Tuần phủ Phú Thọ ông Lê Trung Ngọc vào năm 1917 (niên hiệu Khải Định năm thứ nhất) đã làm bản tấu trình lên Bộ Lễ, xin định lệ lấy ngày 10.3 âm lịch hàng năm làm ngày Quốc tế.
Từ đó về sau, cứ vào ngày 10.3 nhân dân cả nước lại hướng về vùng đất Cội nguồn - xã Hy Cương, Lâm Thao, Phú Thọ để tôn vinh công lao của các vị vua Hùng.