Osho từng nói về triết học của mình là một thứ triết học phi triết học (philosophy of no philosophy) mà trong đó “Hiểu” thực sự là một cuốn sách khó đọc và đầy táo bạo, chứa đựng những ý tưởng mới lạ có thể làm căng não bất kỳ độc giả “non nớt” nào, nhưng sẽ giúp độc giả hiểu được một phần con người kỳ dị này của thế kỷ trước.
Trong cuốn sách này, ông không ngừng đề cập đến những mặt tối của các nền tôn giáo hiện thời và đưa ra mong muốn thay đổi quá trình khám phá tâm linh thành một lĩnh vực khoa học, tạo nên một nền tôn giáo mới vượt lên trên tất cả mọi tôn giáo khác.
Là một nhà giác ngộ tinh thần vĩ đại của thế kỷ 20, và có những cái nhìn tương đối khắt khe với tôn giáo, nhưng chỉ cần một chút tinh tế, chúng ta có thể nhận ra rằng Osho luôn nói về Phật giáo với thái độ tích cực hơn hẳn, đặc biệt là với tinh thần nguyên thủy của Phật giáo. Hoặc ít nhất, ông không đưa ra những lời chỉ trích quá đỗi khắt khe, thậm chí trong cuốn sách này, nền tôn giáo siêu việt mà ông đưa ra có phần tương đồng, hay nói cách khác là có chút nền tảng từ Phật giáo.
Vậy chúng là?
Không tôn thờ một vị chúa nào cả.
Không giống như Ấn Độ giáo hay các tôn giáo phương đông khác, Phật giáo không có một vị thần trung tâm. Điều đó không có nghĩa là họ đang chống lại một vị thần, nó chỉ có nghĩa là họ không có lý do gì để có một vị thần.
Phật không được tôn thờ.
Mặc dù mọi Phật tử đều hiểu và biết ơn thông điệp mà Đức Phật đã mang lại, nhưng họ hiểu rằng Ngài cũng là một con người giống như họ. Mặc dù một số người trong Ấn Độ giáo coi ông là hóa thân của thần Vishnu (Krishna), hầu hết các Phật tử không chia sẻ quan điểm đó. Với họ, Đức Phật không phải là một đối tượng để tôn thờ hay sợ hãi, Phật chỉ như một tấm gương để soi chiếu.
Ai cũng có thể là Phật.
Một trong những điều đáng chú ý nhất về Phật giáo là nó rất dễ tiếp cận. “Đức Phật” chỉ là một danh hiệu được đặt cho Siddhartha Gautama vì sự làm chủ bản thân của ông. Điều này có nghĩa là Ngài ấy đã đạt được giác ngộ thành công - điều mà ai cũng có thể làm được.
Mọi người đều có quyền sở hữu.
Đức Phật, hay bất kỳ đấng giác ngộ nào khác, không phải là một vị cứu tinh như trong Cơ đốc giáo. Chỉ vì bạn tin vào những lời dạy không có nghĩa là bạn sẽ được bảo vệ khỏi bất cứ điều gì; bạn phải tuân theo triết lý để tìm thấy hạnh phúc thực sự.
Phật giáo tồn tại mà không có Phật.
Đức Phật đã chia sẻ những phát hiện của mình với thế giới như những chân lý phổ quát, chứ không phải những triết lý dành riêng cho những người là “tín đồ”. Ông ấy không phải là người sáng tạo hay một nhà tiên tri; chỉ là một người tìm kiếm sự thật.
Nguồn gốc của chúng ta không quan trọng.
Trong khi hầu hết các tôn giáo bận rộn với những câu chuyện về sự sáng tạo và vũ trụ, thì Phật giáo không quan tâm chút nào. Tại sao? Bởi vì điều quan trọng nhất là hiện tại mãi mãi, và làm việc với chính chúng ta trong thời điểm này. Điều đó có nghĩa là buông bỏ quá khứ và tương lai.
"Kẻ xấu" phải đau khổ.
Nhiều tôn giáo có một kẻ xấu tối thượng - tức là kẻ như Satan - chuyên khủng bố hoặc khuyến khích các hành vi xấu xa. Trong Phật giáo, điều ác của một thứ được đo lường bằng mức độ nó tạo ra đau khổ. Nguyên nhân lớn nhất của đau khổ là bản ngã, khái niệm rằng chúng ta tách biệt khỏi mọi thứ khác. Khi vô minh chấm dứt, hạnh phúc thực sự bắt đầu.
Thực tế dựa trên nhận thức.
Không có quá nhiều niềm tin về thiên đường và địa ngục (mặc dù một số giáo phái tin vào điều đó) cũng như hiểu rằng bằng cách chuyển nhận thức của mình lên một mức độ ý thức cao hơn, chúng ta đang thay đổi thực tế của mình.
Mọi thứ đều có thể thay đổi.
Mỗi Phật tử đều dành riêng cho một điều duy nhất: theo đuổi chân lý. Nếu phát hiện ai đó giáo lý Phật giáo không đúng, thì giáo lý và triết lý sẽ phải thay đổi. Nó không phải là một hệ thống cứng nhắc theo bất kỳ phương tiện nào.
Niềm tin không bị kiểm soát.
Mặc dù đa số các học viên Phật giáo tin vào luân hồi là đúng, nhưng nhiều người thì không. Họ được phép tin vào bất cứ điều gì họ muốn trong khi thực hành các giáo lý. Không ai bị ép buộc phải làm gì cả!
“Một Phật Thích Ca Mâu Ni có thể trở nên giác ngộ, nhưng như vậy không có nghĩa là người khác cũng giác ngộ. Mỗi cá nhân phải tự mình tìm ra chân lý. Vì vậy, bất cứ chuyện gì xảy ra bên ngoài cứ tiếp tục tích tụ, chồng chất; các tiến bộ khoa học tiếp tục chất đống bởi vì mỗi nhà khoa học đang đứng trên vai của những nhà khoa học khác. Nhưng sự phát triển của ý thức không tuân theo cùng một quy luật như vậy. Mỗi cá nhân phải tự mình khám phá; anh ta không thể đứng trên vai của người khác.”