Trong ba người học trò của thầy trò Đường Tăng, chắc chúng ta đều biết Tôn Ngộ Không là yêu tinh khỉ do khi sinh ra từ đá đã là khỉ, được gọi là Thạch hầu; còn Trư Bát Giới vốn là Thiên bồng nguyên soái nhưng bị đầy xuống trần gian đầu thai từ con lợn (heo). Thậm chí con ngựa bạch mà Đường Tăng cưỡi cũng nhiều người biết nó chính Tam thái tử của Tây Hải long vương do phạm tội mà bị chặt vây, cạo vẩy hóa thành ngựa. Riêng người đồ đệ thứ 3 của Đường Tăng là hiện thân của con gì thì chắc nhiều người không biết.
Trong phim Tây du ký, người đóng vai nhân vật Sa Tăng là Diêm Hoài Lễ cũng chẳng phải hóa trang khó nhọc như anh Khỉ và anh Lợn nên nhiều người nghĩ rằng Sa Tăng cũng là người.
Nhưng trong nguyên tác Tây du ký, Ngô Thừa Ân lại tả Sa Tăng không giống người cho lắm. Sa Tăng xuất hiện lần đầu ở hồi 22 được tả thế này:
"Thầy trò đang mải xem bia, bỗng thấy nước tung như núi, sóng cuộn tựa non, rồi ầm một tiếng, một con yêu tinh ở giữa sông chui lên trông thật vô cùng hung dữ:
Khắp đầu tóc đỏ rối tung,
Tròn xoe hai mắt sáng trưng như đèn.
Mặt thì xàm xạm đen đen,
Tiếng rồng như sấm thét lên vang lừng.
Mình khoác áo lông ngỗng vàng,
Lưng thắt hai dải mây rừng trắng bong.
Chín đầu lâu cổ đeo vòng,
Tay cầm bảo trượng oai phong vô cùng".
Nghĩa là tả Sa Tăng là một yêu tinh có dáng người nhưng cũng không hẳn là người. Xét về tiền kiếp của Sa Tăng thì ngày trước vốn giữ chức Quyển liêm đại tướng, là chức coi việc trông rèm, trông xa giá cho Ngọc Đế. Do làm vỡ chén lưu ly ở Hội Bàn Đào trong lúc say rượu nên y bị đày xuống sông Lưu Sa làm yêu quái.
Tuy nhiên, tiền kiếp cũng không mang lại manh mối nhiều vì Bát Giới trước là Thiên Bồng nguyên soái mà xuống trần gian cũng bị làm yêu quái hình lợn đó thôi.
Ngoài ra, có một đoạn trong Tây du ký chắc ít người nhớ có tả cảnh quan nước Chu Tử mô tả 3 người đồ đệ ở hồi 68. Khi đó vua Chu Tử bị yêu quái bắt mất vợ nên không thiết ăn uống sinh bệnh. Ngộ Không dùng tài làm thuốc giúp trị bệnh nên được mời vào cung. Khi quan đến gặp thì thấy Bát Giới đầu tiên.
"Quan Dương Diện vừa nhìn thấy hồn vía đã rụng rời, run như cầy sấy, miệng lắp bắp: Ôi, quỷ lợn! Quỷ lợn!
Hành Giả thấy thế, túm chặt lấy Bát Giới nói: Chú em, phải có lễ độ một tý chứ, đừng giở cái thói quê mùa ra.
Mọi người nhìn thấy Hành Giả, lại kêu toáng lên: Ôi, tinh khỉ! Tinh khỉ!
Sa Tăng chắp tay nói: Các vị đừng sợ. Ba chúng tôi là đồ đệ của Đường Tăng đấy.
Mọi người nhìn thấy lại la rầm lên: Ôi! Táo quân! Táo quân!
Nghĩa là Sa Tăng có vẻ giống người nhất nhưng mà vẫn khiến người ta phải thất kinh đến mức la toáng lên thì ắt hẳn cũng khác thường lắm, chứ không bình thường như thể hiện trên phim được.
Sa Tăng là người Tây Vực
Tác phẩm Tây du ký của Ngô Thừa Ân là tổng hợp kiến thức nhiều lĩnh vực từ lịch sử, văn hóa đến tôn giáo thời kỳ trước. Để đi tìm nguồn gốc Sa Tăng thì lại phải khảo cứu sách sử Trung Quốc. Ngô Thừa Ân là một tiểu thuyết gia thời nhà Minh và ông phóng tác Tây du ký dựa trên Đại Đường Tây Vực ký và các câu truyện dân gian nhỏ lẻ để ghép nối lại.
Nhưng khác với Tây du ký, thì Đại Đường Tây Vực ký ghi lại hành trình thỉnh kinh của Huyền Trang từ Trường An (nay là Tây An) về phía tây và chu du xuyên Tây Vực. Trên hành trình đó, nhà sư Huyền Trang đã mô tả văn hóa, tín ngưỡng tôn giáo của hơn 200 quốc gia và thành phố, cũng như nhiều nhóm sắc tộc. Phong tục tập quán, hôn nhân, ma chay, trị bệnh, ca múa nhạc, kiến trúc… được ghi lại trong đó có giá trị tư liệu rất quan trọng đối với việc nghiên cứu địa lý lịch sử cổ đại của Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Pakistan.
Vào năm Trinh Quán thứ 17 (năm 643), chuyến du hành của Huyền Trang kết thúc, ông từ chối sự lưu giữ của các nhà sư Ấn Độ để trở về kinh đô Trường An hai năm sau đó với 657 bộ kinh phật. Tổng hành trình đó kéo dài 19 năm và đi 50.000 dặm. Sau khi trở về Trung Quốc, Huyền Trang bắt đầu dịch kinh phật, và dưới sự thúc giục của Đường Thái Tông Lý Thế Dân, Huyền Trang đã sai khiến đệ tử của ông là Biện Cơ viết và viết những gì ông thấy, nghe ở Tây Vực thành một cuốn sách. Cuốn này hoàn thành năm Trinh Quán thứ 20.
Mặc dù trong Tây du ký không nói rõ Sa Tăng là hiện thân của loài gì, nhưng điều đó được thể hiện một cách gián tiếp trong Đại Đường Tây Vực ký. Theo đó, Huyền Trang trên đường đi lấy kinh phật đã gặp thách thức là một sa mạc cát lún rộng 800 dặm. Đã vậy, khi Đường Tăng ở giữa đường vô tình làm đổ túi nước, đến nỗi bị ngất xỉu vì không uống được nước trong 4 - 5 ngày. Trong lúc ông đang hấp hối và tưởng chừng cầm chắc cái chết trong tay thì bỗng thấy một người đàn ông cao lớn, râu ria xồm xoàm kêu ông: Dậy đi, phía trước không xa có nước đó.
Huyền Trang giật mình tỉnh giấc nên nhất quyết lên lưng ngựa và được ngựa cõng về phía trước. Nhà sư không cần đi quá xa là đã nhìn thấy dòng suối. Dòng nước đó đã cứu sống Huyền Trang và khơi dòng Phật học chảy từ Ấn Độ sang Trung Quốc. Sau đó, Huyền Trang được người dân địa phương kể rằng người đã nói chuyện với ông chính là thần bảo hộ sa mạc. Khi Ngô Thừa Ân viết Tây du ký, ông đã biến 800 dặm cát lún thành Lưu Sa hà dài tám trăm dặm mà lông ngỗng rơi xuống cũng chìm. Trước kia người ta tưởng Ngô Thừa Ân chỉ thuận bút mà hư cấu chi tiết này nhưng chi tiết lông ngỗng chìm trên sông là có thật vì cát mà đã lún thì có cái gì trên đó không chìm đâu. Do đó, Sa Tăng có thể là hiện thân thần cát lún. Sa, theo chữ Hán nghĩa là cát.
Còn trên thực tế, người đã cứu sống Đường Tăng khi cận kề cái chết có thể là một người vùng Tây Vực (chỉ các quốc gia ở phía tây nhà Đường thời đó). Hình ảnh một người đàn ông râu ria xồm xoàm phù hợp với hình ảnh của những người Tây Vực khi đó. Các lái buôn thời ấy thường thuê người bản địa gồng gánh hàng băng qua các con đường hiểm trở cũng phù hợp với Sa Tăng chăm chỉ gánh hành lý trong truyện.
Đi tìm Sa Tăng từ… Nhật
Đối với câu hỏi Sa Tăng là hiện thân từ đâu thì còn có thể tra cứu ở nhiều nền văn hóa khác nữa. Người nước láng giềng Nhật Bản lại gợi ý một câu trả lời được chấp nhận. Khi trẻ em Nhật Bản nhìn thấy sự xuất hiện của Sa Tăng trong Tây du ký trên màn ảnh truyền hình, chúng thường reo lên nói: "Ồ, Kappa có tên là Sa Ngộ Tịnh".
Vậy Kappa là loài yêu quái gì?
Kappa là một loài lưỡng cư nổi tiếng ở Nhật Bản. Theo truyền thuyết cổ xưa của Nhật Bản, Kappa thích sống trong các hang động gần sông. Giữa đầu chúng có một phần trũng xuống và có mỏ chim, chân thì của ếch. Thân và mai của ba ba. Chúng được mô tả là giỏi từ dưới nước lẻn tấn công vào gia súc và con người, ăn các cơ quan nội tạng của con mồi. Trong tâm thức của con người Nhật Bản, chúng là những con quái vật nguy hiểm.
Nhưng mối quan hệ giữa Kappa và Sa Tăng là gì nhỉ?
Khi Tây du ký lần đầu tiên được giới thiệu đến Nhật Bản vào thời Minh Trị, một học giả Nhật Bản duy tâm tin rằng điều đầu tiên cần làm là tìm ra bản tướng nhân vật trong tác phẩm đó. Đường Tăng là người, Tôn Ngộ Không là khỉ và Trư Bát Giới là lợn. Còn Sa Tăng là gì thì người Nhật cũng chưa biết.
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng, người Nhật tin rằng nhà Sa Tăng có đỉnh đầu nhẵn nhụi, tóc xù xung quanh, ngoại hình xấu xí. Sa Tăng đã nhảy ra khỏi sông lên cạn, rồi từ trên cạn nhảy ùm xuống sông rất dễ dàng. Liệu có thể là gì khác nếu đó không phải là một Kappa? Các học giả Nhật Bản cũng đã xác minh rằng vũ khí của Sa Tăng là cây trượng hình nửa mặt trăng, thực chất là một nông cụ được sinh ra từ Nhật Bản.
Ngoài ra còn có bằng chứng mạnh mẽ khác. Trong truyền thuyết Nhật Bản, Kappa sợ khỉ nhất. Ví dụ, có một truyền thuyết ở tỉnh Kumamoto rằng Kappa thường xuyên quấy rối con người trong những ngày đó. Lãnh chúa của Kumamoto, Kiyomasa Kato, đã tìm thấy nhiều con khỉ từ những ngọn núi và chúng đã xua đuổi thành công Kappa xuống một con sông hẻo lánh. Trong Tây du ký, Sa Tăng luôn sợ hãi khi gặp Tôn Ngộ Không và không dám rời khỏi nước, điều này hoàn toàn phù hợp với đặc điểm của Kappa.
Vì vậy, bất cứ khi nào người Nhật chuyển thể Tây du ký, từ truyện, tranh ảnh đến phim ảnh, truyền hình, hình ảnh Sa Tăng đều được đặt thành một Kappa với mái đầu nhẵn nhụi và những chỏm tóc lông bông.
Câu hỏi đặt ra là Đường Tăng chỉ đi đến tây phương để thỉnh kinh thì làm sao ông có thể tìm kiếm một đồ đệ là Kappa vốn chỉ có ở Nhật. Nhưng vào thời kỳ Ngô Thừa Ân sống thì đã có sự giao lưu mạnh mẽ văn hóa giữa Trung Quốc và Nhật Bản. Rất có thể Ngô Thừa Ân cũng chịu ảnh hưởng từ những câu chuyện dân gian của Nhật để xây dựng một hình tượng nhân vật kỳ lạ yêu không ra yêu mà người cũng không phải người.