Tại phiên họp thứ 3 ngày 14.9, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nghe Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch Nguyễn Văn Hùng trình bày tờ trình dự án Luật Điện ảnh (sửa đổi).
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết Luật Điện ảnh đã bộc lộ những thiếu sót, bất cập cần sớm được sửa đổi, bổ sung. Trong đó một số quy định của Luật Điện ảnh hiện hành không còn phù hợp hoặc đã bị bãi bỏ hoặc được quy định tại luật chuyên ngành khác; một số hành vi vi phạm về sản xuất, phát hành, phổ biến phim, lưu trữ phim, nhân bản phim không còn phù hợp với tình hình thực tiễn và đã được điều chỉnh cụ thể bằng các văn bản quy phạm pháp luật khác…
Bộ trưởng Hùng cũng cho rằng việc phát hành, phổ biến phim trên mạng lưới băng thông rộng, thông qua các ứng dụng trên nền tảng kỹ thuật số đang diễn biến phức tạp tại Việt Nam và trên khắp thế giới. Tuy nhiên, Luật Điện ảnh hiện hành chưa cập nhật sự phát triển điện ảnh về mặt kỹ thuật, công nghệ.
Để đáp ứng yêu cầu về chuyển đổi số, quản lý hiệu quả phương thức phát hành và phổ biến phim trên nền tảng kỹ thuật số, ông Hùng đề nghị cần tạo dựng hành lang pháp lý quy định cụ thể.
Dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) gồm 8 chương, 52 điều, trong đó kế thừa, chỉnh lý, sửa đổi và bổ sung 25 điều, quy định mới 27 điều so với Luật Điện ảnh hiện hành. Trong quá trình xây dựng Luật Điện ảnh (sửa đổi) còn một số vấn đề có ý kiến khác nhau. Ông Hùng nêu rõ 2 vấn đề là quy định về sản xuất phim bằng nguồn ngân sách nhà nước và phổ biến phim trên không gian mạng.
Liên quan đến quy định về sản xuất phim bằng nguồn ngân sách nhà nước, Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho biết phương án 1 là sản xuất phim theo hình thức giao nhiệm vụ và đặt hàng, phương án 2 là giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng hoặc đấu thầu.
Đa số thành viên chính phủ và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất với phương án 1: “Sản xuất phim bằng nguồn ngân sách nhà nước được thực hiện theo một trong hai hình thức giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng”.
Cơ quan chủ trì soạn thảo mong muốn các bộ ngành, các cơ quan ủng hộ phương án này để khắc phục những bất cập trong thời gian qua khi phải xin cơ chế đặt hàng sản xuất phim sử dụng ngân sách nhà nước.
Đề cập đến vấn đề phổ biến phim trên không gian mạng, dự thảo luật đưa ra 2 phương án.
Phương án 1: Dự thảo luật quy định “Phải tự phân loại, hiển thị kết quả phân loại phim theo quy định tại điều 33 luật này và chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả phân loại phim”.
Bộ trưởng Nguyễn Văn Hùng cho rằng đây là cách tiếp cận mới và linh hoạt trong bối cảnh phát triển của dịch vụ phát hành, phổ biến phim trực tuyến, giúp giảm gánh nặng về chi phí và nhân sự cho các nhà quản lý, tăng cường hội nhập quốc tế, thương mại điện tử xuyên biên giới.
Tuy nhiên, phương án này tạo ra sự phân biệt, thiếu công bằng giữa các phương thức phổ biến phim. Việc tự kiểm duyệt cũng tạo nên nguy cơ để lọt các sản phẩm phản ánh sai trái lịch sử, nội dung bạo lực, sử dụng ma túy, khiêu dâm, xâm hại trẻ em… Điều này gây nên hậu quả tiêu cực trong đời sống văn hóa - xã hội, khó xử lý kịp thời, triệt để.
Phương án 2: Dự thảo luật quy định: “Chỉ được phổ biến phim khi có giấy phép phân loại phim do Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch, UBND cấp tỉnh cấp hoặc quyết định phân loại của cơ quan báo chí có giấy phép hoạt động phát thanh, truyền hình thì được phép phổ biến trên không gian mạng. Đối với phim chưa được cấp phép phải được Bộ Văn hóa - Thể thao - Du lịch phân loại trước khi phổ biến trên không gian mạng”.
Đa số thành viên chính phủ và cơ quan chủ trì soạn thảo thống nhất phương án 1. Theo đó, các doanh nghiệp, tổ chức phổ biến phim trên không gian mạng phải tự kiểm duyệt nội dung, tự phân loại, hiển thị kết quả phân loại phim theo tiêu chí quy định; cung cấp công cụ xử lý vi phạm cho cơ quan quản lý nhà nước về phát hành, phổ biến phim; bảo đảm không vi phạm pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung phim phổ biến.
Thường trực Ủy ban Văn hóa - Giáo dục đề xuất phương án 3: Kết hợp hậu kiểm và tiền kiểm hợp lý, trong đó hậu kiểm là chủ yếu, tiền kiểm đối với phim có ảnh hưởng xấu đến chính trị, tư tưởng, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và phải phù hợp với điều kiện, khả năng quản lý của cơ quan nhà nước.