Herodotus (484 TCN - 425 TCN) là một trong những nhà sử học vĩ đại mọi thời đại trong văn hóa phương Tây và Ai Cập cổ đại là một nền văn minh cổ đại nằm ở Đông Bắc châu Phi, tập trung dọc theo hạ lưu của sông Nile thuộc khu vực đất nước Ai Cập ngày nay. Nền văn minh Ai Cập được thống nhất vào năm 3150 TCN với sự thống nhất chính trị của Thượng và Hạ Ai Cập dưới thời vị pharaon đầu tiên. Lịch sử của Ai Cập cổ đại đã trải qua một loạt các thời kỳ vương quốc ổn định và các giai đoạn hỗn loạn giữa chúng. Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, văn minh Ai Cập đạt được nhiều thành tựu đáng chú ý như chữ viết, văn học, kiến trúc và các kiến thức khoa học tự nhiên. Có thể nói rằng văn minh Ai Cập là một trong những nền văn minh phát triển rực rỡ nhất của thế giới cổ đại mà tầm ảnh hưởng xuyên không gian và thời gian. Cho đến nay, những thành tựu ấy vẫn làm cho chúng ta thán phục và ngạc nhiên trước sức sáng tạo kì diệu của Ai Cập thời cổ đại.
Trên cơ sở công cụ bằng đồng và nền kinh tế nông nghiệp, cư dân Ai Cập cổ đại từ rất sớm đã học hỏi, sáng tạo nên một nền văn minh vô cùng rực rỡ, trong đó, những thành tựu chủ yếu là chữ viết, văn học, kiến trúc và các kiến thức khoa học tự nhiên.
Từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành, chữ viết ở Ai Cập đã ra đời. Chữ viết của Ai Cập cổ đại lúc đầu là chữ tượng hình - tức là muốn viết chữ để biểu thị một vật gì thì vẽ hình thù của vật ấy. Vì vậy, nhìn vào các bản viết chữ Ai Cập cổ đại, ta thấy các hình vẽ như người, các loại động vật (chim, gia súc, dã thú, côn trùng), cây cối, mặt trời, mặt trăng, sao, nước, núi non v.v...
Đối với các khái niệm trừu tượng hoặc phức tạp thì phải dùng phương pháp mượn ý. Phương pháp tượng hình này không đủ khả năng diễn đạt những từ có nội dung phức tạp, có tính trừu tượng cao. Để khắc phục, người Ai Cập đã kết hợp giữa phương pháp tượng hình và phương pháp tượng trưng. Ví dụ, để diễn tả con trâu, người ta vẽ hình đầu trâu, hình con chim Đà Điểu (có lông đều dài như nhau) để thể hiện sự công bằng. Thời kỳ này, người Ai Cập đã biết sử dụng da, vải và giấy Papyrus để viết chữ. Đây là loại cây tương tự cây sậy, mọc rất nhiều ở bờ sông Nile. Ngoài ra, văn tự cổ của người Ai Cập còn được khắc trên các mặt đá.
Chữ tượng hình của người Ai Cập rất khó đọc và khó nhớ. Sau khi Ai Cập suy vong, không ai có thể đọc được thứ chữ viết này. Đến năm 1822, một học giả người Pháp tên Champollion mới tìm ra cách để giải mã những văn tự cổ do người Ai Cập để lại. Đến cuối thế kỷ 20, các nhà khoa học đã truy ra mẫu tự Phoenix được biến tấu từ văn tự Ai Cập cổ.
Các dân tộc Do Thái, Ả Rập, Hy Lạp và La tinh đã dựa theo mẫu tự này để tạo nên chữ viết của riêng mình. Có thể nói, ngôn ngữ của chúng ta dùng ngày nay đều thừa hưởng di sản từ chữ viết Ai Cập cổ.
Về tôn giáo giống như cư dân các quốc gia cổ đại khác, người Ai Cập trong thời kì này thờ rất nhiều thứ: các thần tự nhiên, các thần động vật, linh hồn người chết, thần đá, thần lửa, thần cây... Các thần tự nhiên chủ yếu gồm có Thiên thần, Địa thần và Thủy thần.
Về sau cùng với sự hình thành nhà nước tập quyền trung ương, thần Mặt Trời trở thành vị thần quan trọng nhất. Nơi thờ thần Mặt Trời đầu tiên là thành Iunu, người Hy Lạp gọi là Hêliôpôlix. Thần Mặt Trời ở đây gọi là thần Ra.
Ngoài thần Mặt Trời, người Ai Cập còn thờ thần Mặt Trăng Tốt (Thoth). Thần Tốt còn được quan niệm là thần văn tự, kế toán và trí tuệ. Thần Mặt Trăng được thể hiện dưới hình tượng một con người đầu chim hồng hạc hoặc đầu khỉ. Người Ai Cập cổ đại còn thờ nhiều loại động vật từ dã thú, gia súc, chim đến côn trùng như chó sói, cá sấu, rắn, sơn dương, cừu, mèo, hồng hạc, đặc biệt là bò mộng Apix. Ngoài các con vật có thực, người Ai Cập còn thờ các con vật tưởng tượng như phượng hoàng, nhân sư.
Người Ai Cập cổ đại cũng rất coi trọng việc thờ người chết. Họ quan niệm rằng trong mỗi con người đều có một hình bóng gọi là "can" (linh hồn) hoàn toàn giống người đó như cái bóng ở trong gương. Linh hồn tồn tại đến khi thi thể người chết hủy nát thì mới chết hẳn. Nhưng nếu thi thể được bảo tồn thì linh hồn một lúc nào đó sẽ nhập vào thể xác và con người sẽ sống lại. Chính vì quan niệm như vậy nên người Ai Cập mới có tục ướp xác.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc của Ai Cập cổ đại đã đạt đến trình độ rất cao. Các công trình kiến trúc tiêu biểu là cung điện, đền miếu, đặc biệt nhất là Kim tự tháp, Tượng nhân sư. Cho đến nay, những công trình này vẫn đứng sừng sững như tượng đài bất tử, khẳng định sự tồn tại của một nền văn minh thịnh vượng cổ xưa. Kim tự tháp, hay chính là mộ của các Pharaoh và hoàng hậu bắt đầu được xây dựng từ thời vua đầu tiên của vương triều III, là các công trình có hình chóp được làm bằng đá. Tính đến năm 2008, có tất cả 138 kim tự tháp được khám phá ở Ai Cập. Nhiều hình vẽ khắc họa được tìm thấy bên trong các kim tự tháp cũng cho ta thấy nghệ thuật phong phú của nền văn minh cổ xưa trong lịch sử loài người, với đề tài phong phú như cảnh sinh hoạt ngày thường, thế giới khi con người đi vào cõi vĩnh hằng.
Việc xây dựng Kim tự tháp, như sử gia Hêrôđôt nói, "đã đem lại cho nhân dân Ai Cập cổ đại không biết bao nhiêu tai họa". Nhưng nhân dân Ai Cập cổ đại, bằng bàn tay và khối óc của mình, đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các Kim tự tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở vùng sa mạc Ai Cập bất chấp thời gian và mưa nắng. Vì vậy, từ lâu người Arập có câu: "Tất cả đều sợ thời gian, nhưng thời gian sợ Kim tự tháp". Và cũng chính vì vậy, từ thời cổ đại, người ta đã xếp Kim tự tháp Ai Cập là kì quan số một trong bảy kì quan thế giới.
Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại cũng có những thành tựu rất lớn biểu hiện ở hai mặt tượng và phù điêu. Từ thời Cổ vương quốc về sau, các vua Ai Cập thường sai tạc tượng của mình và những người trong vương thất. Tượng thường tạc trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng. Tuy nhiên, độc đáo nhất trong nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xphanh (Sphynx), người ta thường dịch là con nhân sư, là những bức tượng mình sư tử đầu người hoặc dê. Những tượng này thường được đặt trước cổng đền miếu. Cá biệt, có đền miếu có đến 500 tượng như vậy.
Tượng nhân sư và Kim tự tháp ở Giza là một trong những công trình kiến trúc nghệ thuật xuyên không gian và thời gian của văn minh Ai Cập. Đặc biệt, kiến trúc Kim Tự Tháp là một kiến trúc rất đặc biệt, thể hiện sự hội tụ và hấp thu mọi ánh sáng năng lượng của tự nhiên, của trời đất vạn vật.
Khoa học tự nhiên ở Ai Cập cổ đại cũng có nhiều thành tựu, quan trọng nhất là về thiên văn và số học. Thành tựu quan trọng nhất trong lĩnh vực thiên văn của người Ai Cập cổ đại là việc làm ra lịch. Lịch Ai Cập được đặt ra dựa trên kết quả quan sát tinh tú và quy luật dâng nước của sông Nile. Họ nhận thấy rằng buổi sáng sớm khi sao Lang (Sirius) bắt đầu mọc cũng là lúc nước sông Nile bắt đầu dâng. Hơn nữa, khoảng cách của hai lần mọc sao Lang là 365 ngày. Họ lấy khoảng thời gian ấy làm một năm. Một năm được chia ra làm 12 tháng, mỗi tháng có 30 ngày, 5 ngày còn thừa để vào cuối năm ăn tết. Năm mới của người Ai Cập bắt đầu từ ngày nước sông Nile bắt đầu dâng (vào khoảng tháng 7 dương lịch). Một năm được chia làm ba mùa, mỗi mùa bốn tháng. Đó là mùa Nước dâng, mùa Ngũ cốc và mùa Thu hoạch. Như vậy, lịch của người Ai Cập cổ đại là một thứ lịch được phát minh rất sớm (vào khoảng thiên kỷ thứ IV TCN) và tương đối chính xác và thuận tiện.
Từ yêu cầu phải đo đạc lại ruộng đất bị nước sông Nile làm ngập và do cần phải tính toán vật liệu trong các công trình xây dựng nên từ sớm, người Ai Cập đã có khá nhiều hiểu biết đáng chú ý về toán học. Ngay từ đầu, họ đã biết dùng phép đếm lấy 10 làm cơ sở. Các chữ số cũng được dùng chữ tượng hình để biểu thị nhưng vì không có cơ số 0 nên cách viết chữ số của họ tương đối phức tạp. Về các phép tính cơ bản, người Ai Cập chỉ mới biết phép cộng và phép trừ. Còn nhân và chia, vì chưa biết bảng nhân nên phải dùng phương pháp cộng và trừ liên tiếp. Về hình học, người Ai Cập đã biết cách tính diện tích hình tam giác, diện tích hình cầu, biết được số π là 3,16, biết tính thể tích hình tháp đáy vuông. Khi giải những bài toán hình học không gian phục vụ cho việc xây dựng Kim tự tháp, họ đã biết vận dụng mầm mống của lượng giác học.
Do tục ướp xác thịnh hành từ rất sớm, người Ai Cập đã hiểu biết tương đối về cấu tạo của cơ thể con người và đã tạo điều kiện cho y học có thể phát triển sớm. Thuật ướp xác của người Ai cập cổ đại ra đời từ năm 2700 TCN và kéo dài tới tận thế kỷ thứ 5. Đây được xem là một trong những tục lệ mai táng phức tạp nhất trong lịch sử nhân loại. Người Ai Cập cổ tin vào sự vĩnh hằng, và ướp xác là một trong những cách để người đã khuất có thể tiến vào thế giới bên kia, nơi Chúa trời che chở họ. Nhờ y học phát triển mà họ đã tìm tòi ra được phương pháp ướp xác có thể nói là hoàn hảo nhất.
Nhiều thành tựu của nền y học Ai Cập cổ đại được ghi trên giấy papyrus và truyền lại đến ngày nay... Các tài liệu ấy đã đề cập đến các vấn đề như nguyên nhân của bệnh tật, mô tả về óc, nói về quan hệ giữa tim và mạch máu, các loại bệnh, cách khám bệnh, khả năng chữa trị v.v..
Ngoài ra, các lĩnh vực khác như vật lí học, hóa học... cũng có những hiểu biết đáng kể. Không thể tưởng tượng được rằng trong việc thiết kế và xây dựng các Kim tự tháp mà cho đến nay vẫn rất bền vững lại thiếu những kiến thức về vật lí học nhất là về lực học. Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu tuyệt vời và đã có nhiều đóng góp trực tiếp đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực trong nền văn minh thế giới.
Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỉ IV TCN. Từ đó cho đến năm 525 TCN, theo cách phân chia của Manêtông, tác giả sách Lịch sử Ai Cập, sống vào thế kỉ III TCN, lịch sử Ai Cập cổ đại được chia thành 5 thời kì là Tảo vương quốc, Cổ vương quốc, Trung vương quốc, Tân vương quốc và Hậu kì vương quốc gồm tất cả 31 vương triều.
Xã hội Ai Cập cổ đại đã có sự phân chia giai cấp ở mức độ cao và địa vị xã hội đã được phân biệt rõ ràng. Tầng lớp thống trị là giai cấp chủ nô (vua, quý tộc, tăng lữ) nắm quyền lực kinh tế, chính trị và có địa vị ưu đãi, có quyền sở hữu nhiều ruộng đất và nô lệ. Những người bị trị bao gồm: nông dân, thợ thủ công, nô lệ. Bộ máy nhà nước tuy tương đối cồng kềnh, nhưng hoạt động một cách hiệu quả và chặt chẽ. Ngoài những quy định trong tuyển chọn quan lại theo thứ bậc, nhà nước ban hành nhiều quy định về hoạt động, thẩm quyền của các bộ phận từ trung ương đến địa phương, ban bố những sắc lệnh quy định về sự trừng phạt.
Hatshepsut (1508 - 1458 TCN) nữ Pharaoh vĩ đại trong lịch sử Ai Cập, nắm giữ toàn vương quyền và thời gian trị vì lâu nhất đã cai quản bằng những chiến lược và mô hình đúng đắn, đưa Ai Cập trở thành một quốc gia hùng mạnh, thịnh vượng và giàu có thời bấy giờ.
Đứng đầu bộ máy nhà nước là Pharaoh. Ông có quyền lực rất lớn: bổ nhiệm hoặc bãi miễn chức vụ của quan lại, quyết định các công việc quan trọng của quốc gia. Pharaoh là người sở hữu tối cao về ruộng đất, có quyền phân phát ruộng đất và của cải theo ý mình. Quyền lực tối thượng của ông ta được tín ngưỡng hóa làm cho nó trở thành thứ siêu nhiên, huyền bí. Người đứng đầu hệ thống pháp luật cũng là Pharaoh, người chịu trách nhiệm thi hành pháp luật, thực thi công lý, duy trì pháp luật và trật tự và dựa vào một bộ máy quan lại giúp ông quản lý công việc của mình. Nhưng ông vẫn phải kiêng dè các tăng lữ lập thành phe nhóm, liên kết lẫn nhau để tạo một ảnh hưởng cực mạnh. Bộ máy tư pháp hình thành khá sớm, đồ sộ nhưng thẩm quyền của nó chưa tách bạch với hành pháp. Sự mờ nhạt về ranh giới giữa quản lý hành chính và quyền xét xử là đặc trưng của chế độ chiếm hữu nô lệ chuyên chế.
Để chinh phục được những vùng đất mới mở rộng bờ cõi lãnh thổ cũng như bảo vệ đất nước trước quân xâm lược, các Pharaoh đã xây dựng lực lượng quân đội hùng hậu và thiện chiến. Nhiều binh sĩ được huấn luyện khắc nghiệt từ khi 5 tuổi và sử dụng thành thạo nhiều vũ khí. Trang bị quân sự điển hình bao gồm cung tên, giáo và loại khiên đầu tròn được chế tạo bằng cách bọc da động vật vào một khung gỗ. Binh lính được tuyển chọn từ những người dân thường, nhưng trong giai đoạn Tân Vương quốc và đặc biệt là thời kỳ sau đó, lính đánh thuê đã được tuyển mộ để chiến đấu cho Ai Cập.
Vào khoảng nửa sau thiên niên kỉ IV TCN, do sự phát triển của lực lực lượng sản xuất và sự phân hóa giàu nghèo, các công xã nông thôn đã liên hiệp lại thành những nhà nước nhỏ đầu tiên gọi là châu. Dần dần, những châu ấy hợp lại thành hai miền Thượng và Hạ Ai Cập. Tổ chức nhà nước lúc bấy giờ còn sơ khai nhưng đã mang đặc điểm của một nhà nước chuyên chế. Tiếp đó, qua đấu tranh, hai miền Thượng và Hạ Ai Cập mới thống nhất thành nước Ai Cập. Giai đoạn củng cố và phát triển nhà nước quân chủ tập quyền thống nhất của Ai Cập cổ đại từ khoảng 3200-30 TCN.
Từ khi nhà nước Ai Cập thống nhất ra đời cho đến khoảng năm 3000 TCN, ở Ai Cập đã trải qua hai vương triều là vương triều I và vương triều II và được gọi chung là thời Tảo vương quốc. Vào thời kỳ này, người Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và súc vật để kéo cày. Người đứng đầu nhà nước là vua chuyên chế gọi là Pharaoh.
Thời kì Cổ vương quốc bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đầu thời Cổ vương quốc, chế độ tập quyền trung ương càng được củng cố, kinh tế cũng phát triển hơn trước. Trên cơ sở ấy, các Pharaoh đã huy động sức người sức của để xây dựng cho mình những Kim tự tháp rất đồ sộ. Nhưng từ vương triều V, thế lực của chính quyền trung ương bắt đầu suy giảm, đến vương triều VII, nền thống nhất không duy trì được nữa.
Đến thời kì Trung vương quốc (khoảng 2200-1570 TCN) bao gồm 7 vương triều, trong đó, thời kì thống trị của vương triều XI và vương triều XII là thời kì ổn định nhất. Nhưng đến năm 1750 TCN, ở Ai Cập đã nổ ra một cuộc khởi nghĩa của dân nghèo. Từ đó Ai Cập bị suy yếu. Năm 1710 TCN, miền Bắc Ai Cập bị người Híchxốt ở Palextin chinh phục thống trị 140 năm. Trong thời gian ấy, miền Nam Ai Cập cũng phải thần phục vương triều ngoại tộc. Năm 1570 TCN, người Híchxốt bị đánh đuổi khỏi Ai Cập, đất nước lại được thống nhất, thời Tân vương quốc bắt đầu. Các Pharaon thời kỳ này thi hành chính sách vũ lực và không ngừng mở rộng lãnh thổ. Nhờ đó, Ai Cập trở thành một quốc gia rộng lớn hơn bao giờ hết.
Cuối vương triều XVIII, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần Mặt trời Amôn phát triển quá mạnh, lấn át cả uy quyền của vua, vì vậy, để làm suy yếu thế lực của tầng lớp tăng lữ, vua Ichnatôn đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo, nhưng chính sách cải cách này chỉ được thi hành một thời gian ngắn. Sau vương triều XVIII, Ai Cập ngày càng suy yếu. Từ thế kỉ X TCN, Ai Cập hết bị chia cắt lại bị ngoại tộc thống trị. Đến năm 30 TCN, Ai Cập thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
Ai Cập là một quốc gia có lịch sử cổ đại sớm nhất, lâu dài nhất và liên tục. Lịch sử có thể coi là lịch sử nhà nước quân chủ trung ương tập quyền, tạo nên các tác phẩm quy mô lớn, đồ sộ. Chịu ảnh hưởng của yếu tố chiến tranh, bao gồm cả chiến tranh xâm lược và bị xâm lược thế nên Ai Cập đã truyền bá văn minh của mình và tiếp thu học tập nền văn minh khác.
Nền văn minh Ai Cập cổ đại hay còn được biết tới là nền văn minh sông Nile được xem là một trong những cái nôi của văn minh nhân loại. Địa lý chính là một trong những điều kiện thuận lợi góp phần hình thành nên một trong những nền văn minh sớm nhất thế giới.
Địa hình Ai Cập được chia làm hai khu vực rõ rệt là thượng và hạ Ai Cập. Thượng Ai Cập là dãy thung lũng dài và hẹp, có nhiều núi đá; hạ Ai Cập là vùng châu thổ đồng bằng sông Nile. Lãnh thổ Ai Cập hầu như bị đóng kín, phía Tây giáp sa mạc Libi, phía Đông là Hồng Hải, phía Bắc là Địa Trung Hải, phía Nam giáp sa mạc Nubi và Êtiôpia.
Sông Nile dài hơn 6 ngàn km, có 7 nhánh đổ ra Địa Trung Hải, là một trong những con sông dài nhất thế giới, phần chảy qua Ai Cập là 700km. Hạ lưu sông có hình dáng tam giác, hai bên lưu vực sông có đất đai phì nhiêu, màu mỡ nhờ lượng phù sa lớn bồi đắp, thuận tiện cho các loại cây trồng phát triển. Nơi đây cũng sở hữu quần thể động vật đa dạng. Nhờ đó, cư dân sống ở hai bờ sông Nile không chỉ an cư lạc nghiệp mà còn phát triển thông thương. Thiên nhiên đã ưu ái ban cho nơi này điều kiện vô cùng thuận lợi để phát triển trở thành một trong những nền văn minh sớm nhất thế giới.
Tuy vậy, về mặt địa hình, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, phía Bắc là Địa Trung Hải, phía Đông giáp Biển Đỏ, phía Tây giáp sa mạc Xahara, phía Nam giáp Nubi, nơi giáp giới ấy là một vùng núi hiểm trở khó qua lại. Chỉ có ở Đông Bắc, vùng kênh đào Xuyê sau này, người Ai Cập cổ đại mới có thể qua lại với vùng Tây Á.
Cách đây khoảng 12.000 năm, trên lưu vực châu thổ sông Nile, đã có những nhóm người sinh sống. Cư dân Ai Cập cổ bao gồm các bộ lạc từ Đông Bắc châu Phi và Tây Á đến. Họ quần tụ lại cùng tồn tại và trở thành chủ nhân của nền văn minh rực rỡ ở phương Đông - văn minh Ai Cập.
Năm 3150 TCN, nền văn minh Ai Cập được thống nhất dưới thời pharaoh Narmer, thường được gọi là Menes. Đây cũng là vị vua đầu tiên của đế chế Ai Cập cổ. Trải qua nhiều đời pharaon với những biến động lịch sử, nền văn minh Ai Cập đã tạo ra được vô số thành tựu, từ tín ngưỡng - tôn giáo, văn hóa cho đến xây dựng, tiêu biểu là kim tự tháp - một trong 7 kỳ quan thế giới cổ còn sót lại tới ngày nay.
Người Ai Cập cũng được cho là một trong những nhóm người đầu tiên hoạt động sản xuất nông nghiệp quy mô lớn. Điều này có được là do sự khéo léo trong việc phát triển hệ thống thủy lợi của họ. Để tận dụng một cách tốt nhất nguồn nước, họ đã phát triển các các hệ thống thủy lợi nhằm mục đích chính là tưới tiêu và kiểm soát các hoạt động nông nghiệp. Nền canh tác của người Ai Cập cho phép họ trồng được những cây lương thực, đặc biệt là các loại ngũ cốc như lúa mì và lúa mạch, và các loại cây công nghiệp. Người Ai Cập sử dụng nước của sông Nin cho nhiều mục đích khác nhau. Nước lũ có thể được chuyển sang hướng khác, như vườn tược, để tránh việc ngập lụt cho một số khu vực nhất định. Hệ thống này cũng được sử dụng để cung cấp nước uống cho người Ai Cập.
Những bằng chứng khảo cổ sớm nhất về hệ thống thủy lợi được tìm thấy trên đầu vương trượng của vua Scorpion II, có niên đại vào khoảng năm 3100 TCN. Phần đầu vương trượng mô tả hình ảnh nhà vua đang cầm cuốc đào mương. Sự kết hợp hình ảnh nhà vua với thủy lợi đã nhấn mạnh tầm quan trọng của nguồn nước và nông nghiệp đối với đời sống của cư dân Ai Cập.
Điều kiện tự nhiên của Ai Cập vừa thuận lợi vừa khắc nghiệt đã tạo nên nét đặc trưng trong tính cách con người Ai Cập và trong văn hoá Ai Cập nói chung cũng như các công trình kiến trúc nói riêng. Cư dân ở đây là những người dũng cảm, liều lĩnh, kiên nhẫn và chăm chỉ. Nhà nước Ai Cập ra đời từ rất sớm, mang tính chất chuyên chế. Đời sống nhân dân vô cùng cực khổ do bị áp bức bóc lột quá nặng nề. Chính vì vậy, tầng lớp áp bức đã không ít lần nổi dậy đấu tranh, lật đổ chế độ cai trị. Ai Cập cũng đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược các vùng đất, các nước khác. Mặt khác, Ai Cập cũng là đối tượng xâm lược của các thế lực bên ngoài. Dẫu vậy, người dân Ai Cập sớm bước vào xã hội văn minh cùng những thành tựu vô cùng to lớn trên mọi lĩnh vực của đời sống, bao gồm: chữ viết, văn hoá, tôn giáo, khoa học tự nhiên, kiến trúc, điêu khắc… mà ngày nay nhân loại không thể phủ nhận được. Tất cả đều là do sức sáng tạo thần kỳ của con người thuở đó.
Để hiểu biết mang tính chất nền tảng về các nền văn minh của nhân loại và hiểu sâu sắc hơn về nền văn minh Ai Cập, Nhà Sáng lập – Chủ tịch Tập đoàn Trung Nguyên Legend Đặng Lê Nguyên Vũ tâm huyết, cẩn trọng, tuyển chọn từ hàng triệu cuốn sách, từ hàng ngàn tấm gương danh vĩ nhân thành công nhất của nhân loại với các tác phẩm tiêu biểu viết về lịch sử văn minh nhân loại như: “Nguồn gốc văn minh” (Will Durant), “Văn minh phương Tây và phần còn lại của thế giới” (Niall Ferguson), “Sự va chạm của các nền văn minh và sự tái lập trật tự thế giới” (Samuel Huntington), “Nền văn minh và sự bất mãn của nó” (Sigmund Freud), “Lược sử loài người” (Yuval Noah Harari)… cùng nhiều cuốn sách quý khác.
Tủ sách nền tảng Đổi đời gồm hơn 100 đầu sách quý, thấm đẫm tư duy biện chứng, tuần hoàn liên thông từ lập thuyết đến thực hành, hợp nhất tinh hoa của toàn thể nhân loại về 12 lĩnh vực căn cốt nhất: Khoa học, Triết học, Huyền học, Y học, Võ học, Kinh tài học, Chính trị học, Đạo đức học, Xã hội học, Mỹ học, Âm thanh học và Ngôn ngữ học nhằm khuyến khích việc học hỏi, tiếp thu và ứng dụng tinh hoa tri thức nhân loại. Từ đó, chuyển hóa sức mạnh tri thức thành sức mạnh vật chất, sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần giúp mỗi cá nhân rút ngắn con đường đi đến thành công và hạnh phúc đích thực.
Ai Cập cổ đại là khu vực rất đặc biệt với nền văn minh phát triển từ rất sớm và tồn tại trong thời gian khá lâu dài, có vai trò quan trọng trong việc mở đường cho nền văn minh nhân loại. Thành công của văn minh Ai Cập bởi chính sự hiểu biết, tinh thần học hỏi và sáng tạo đáp ứng nhu cầu phát triển văn hóa-xã hội; có chiến lược, tư tưởng chuẩn mực và tinh thần đoàn kết của các vương triều Pharaoh với đức tin tối thượng vào các vị Thần tối cao cùng tầm ảnh hưởng lớn. Thế nhưng, cũng như Lưỡng Hà, nền văn minh Ai Cập cuối cùng cũng suy vong bởi những giá trị cốt lõi không được đảm bảo và duy trì: có tầm ảnh hưởng lớn nhưng nền văn minh cũng xây dựng dựa trên những nỗi sợ hãi, tham lam của các vua chúa, cá nhân ích kỷ; một tín ngưỡng tôn sùng sự bất tử và 1 vị vua có thể đảm bảo cho ánh mặt trời soi sáng mỗi ngày dẫn đến bị lợi dụng niềm tin để phục vụ cho các mục đích riêng; xã hội bị chia cắt, mất dần tinh thần đoàn kết dân tộc bởi những mâu thuẫn giữa các cấp trong xã hội ở mức cao và địa vị xã hội phân biệt rõ ràng.
(Đón đọc kỳ sau: Văn minh Lưỡng Hà – Bài học đoàn kết vượt lên mọi khác biệt.)