Khi còn là một cậu học sinh cấp 3 tại thị trấn nhỏ phía đông Trung Quốc, Li Xiaoming đã mơ được chuyển tới chốn đô thành phồn hoa để có một cuộc sống tốt hơn.
Nhưng giờ khi đã 24 tuổi, Li chỉ muốn nghỉ ngơi mà thôi!
Khắp Trung Quốc, những thanh niên trẻ giống như Li nhiều vô số kể. Họ mệt mỏi, kiệt quệ trước sức ép "cơ bản" của xã hội: vào đại học, kiếm việc làm, rồi lại chạy đua để thăng tiến. Chán nản, họ rộ lên một xu hướng sống mới có tên "tang ping" - hay có thể tạm dịch là... nằm thẳng cẳng.
Tang ping - xu hướng buông bỏ của giới trẻ Á Đông hiện nay
Cụm từ "tang ping" trở nên nổi tiếng từ một bài đăng trên MXH Trung Quốc hồi đầu năm 2021. Bài đăng này đã bị xóa bỏ, nhưng đại khái nội dung nói về việc thay vì phải làm việc suốt một đời để mua nhà như trước, con người chỉ nên đeo đuổi một cuộc sống bình thường.
Nói cách khác là nằm thẳng cẳng và mặc kệ đời mà thôi.
Những cuộc thảo luận xung quanh "tang ping" đã lan tỏa khắp Trung Quốc, khi giới trẻ phải đối mặt với một cuộc cạnh tranh đầy tàn khốc để có được công việc hấp dẫn nhất - chủ yếu là trong ngành công nghệ hoặc các công việc văn phòng. Trong khi đó với việc Trung Quốc đang tiến hành chiến lược cắt giảm quyền lực của các doanh nghiệp tư nhân, công chúng cũng ngày càng cảnh giác với văn hóa làm việc đến kiệt quệ "996" (9h sáng đến 9h tối, 6 ngày/tuần). Thông thường, các công ty và startup công nghệ yêu cầu nhân viên phải làm việc với số giờ gấp đôi - thậm chí là hơn - so với các công việc bình thường khác.
Nhưng bi kịch một nỗi, xu hướng này không chỉ tồn tại ở Trung Quốc. Tại các nước Á Đông, người trẻ cũng đang dần cảm thấy mệt mỏi về chuyện phải cố gắng làm việc chăm chỉ, trong khi thứ thu lại được thì ít ỏi. Tại Hàn Quốc, giới trẻ đang từ bỏ ý định phải kết hôn và mua nhà. Ở Nhật Bản, họ bi quan về tương lai của đất nước đến mức từ bỏ mọi sự cố gắng và ham muốn vật chất của bản thân.
"Người trẻ đang kiệt sức. Họ chẳng hiểu vì sao mình phải làm việc chăm chỉ như vậy," - trích lời Lim Woon-teak, giáo sư xã hội học tại ĐH Keimyung, Hàn Quốc.
Li đã từng dành cả ngày ở trường để học. Trong kỳ thi đại học, cậu đạt được điểm số trong top 0,37% các trường trung học tỉnh Sơn Đông. Cậu kiếm được bằng thạc sĩ tại một trong 3 trường luật hàng đầu của Trung Quốc, và rồi mong muốn sẽ được nhận vào một công ty luật quốc tế danh giá đặt trụ sở tại Bắc Kinh.
Nhưng khi đăng ký xin thực tập hồi tháng 3/2021, Li bị khoảng hơn 20 công ty luật quốc tế chối từ. Thay vào đó, cậu phải vào làm thực tập sinh tại một công ty luật trong nước.
"Cuộc cạnh tranh (giữa tôi và các thực tập sinh khác) là rất khốc liệt," - Li trải lòng. "Khi nhìn vào những cậu sinh viên vẫn đang nỗ lực để được vào các công ty luật danh giá ấy, tôi cảm thấy mệt mỏi và chẳng còn muốn tham gia nữa."
Hơn 9 triệu sinh viên sẽ tốt nghiệp trong năm 2021, tạo ra áp lực lớn đối với thị trường việc làm
Lối sống "tang ping" giống như một thứ gì đó cộng hưởng với Li. Quá mệt mỏi vì phải tranh đấu, Li quyết định buông xuôi, từ bỏ nỗ lực, chỉ làm những gì đơn giản và tối thiểu nhất trong kỳ thực tập của mình.
"Nhiều người giỏi hơn tôi, làm cũng chăm hơn tôi, vậy nên tôi thấy rất áp lực. 'Tang ping', về cơ bản, là vừa lòng với hiện trạng, không tham vọng, không nỗ lực làm việc nữa."
Những người ủng hộ khái niệm này đã phát triển nó lên thành một triết lý sống, mở rộng ra nhiều mạng xã hội khác nhau. Trên Douban, nhiều người tích cực mô tả những đặc điểm khi theo "tang ping" là như thế nào.
"Tôi sẽ không kết hôn, mua nhà hay sinh con. Cũng chẳng mua túi xách, đồng hồ," - bản mô tả của một "buông-xuôi-er" cho hay. "Tôi sẽ lười biếng chỗ làm việc. Tôi sẽ là một lưỡi kiếm cùn để tẩy chay chủ nghĩa tiêu dùng." Nhóm này đã bị báo cáo và chặn truy cập sau khi thu hút được hàng ngàn người tham gia. Hashtag liên quan đến "tang ping" cũng đã bị kiểm duyệt trên một số mạng xã hội khác.
Dẫu vậy, không thể phủ nhận sự thật rằng áp lực mà giới trẻ Trung Quốc phải đối mặt là rất lớn. Như trong năm 2021, sẽ có khoảng 9,09 triệu sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học và phải tìm việc làm - theo số liệu từ Bộ giáo dục Trung Quốc. Nhưng ngay cả khi tìm được việc, họ còn phải đối mặt với những thách thức như lịch làm việc quá dày đặc - đặc biệt là ở các tập đoàn công nghệ lớn, nơi lưu hành văn hóa làm việc "996".
Mới đây, tòa án tối cao của Trung Quốc cảnh cáo rằng bất kỳ hình thức ép nhân viên làm việc quá giờ sẽ là vi phạm luật lao động, nhằm xử lý văn hóa làm việc được cho là đã giúp các công ty công nghệ Trung Quốc vươn lên đỉnh cao. Nhiều người trẻ đang làm việc cho các công ty như vậy - theo Terence Chong, phó giáo sư kinh tế tại ĐH Hong Kong, Trung Quốc (CHUK).
"Họ cạnh tranh với nhau, rất khốc liệt," - Chong nhận định. Sự cạnh tranh này là lý do vì sao dù không muốn, họ cũng vẫn phải ép mình làm việc quá giờ để bắt kịp tập thể.
Áp lực cạnh tranh khiến nhiều người muốn buông xuôi, bỏ cuộc
Áp lực này cũng không chỉ dừng lại ở ngành công nghệ. Tony Tang - giáo sư đại học 36 tuổi tại Quảng Đông cho biết chính bản thân anh cũng cảm thấy mệt mỏi vì phải làm việc tới 12h mỗi ngày, suốt cả tuần.
"Tôi nghĩ rằng mình bị quá tải," - Tang (tên đã được thay đổi) chia sẻ. "Họ xem sự chăm chỉ là một đức tính đặc trưng của người Trung Quốc."
Giá nhà tăng lên cũng góp phần khiến áp lực ngày càng trở nên nặng nề. Tính trên diện tích, trung bình chi phí cho mỗi mét vuông đất ở tại Bắc Kinh đã tăng hơn gấp đôi trong vòng 6 năm tính đến năm 2019. Cùng giai đoạn ấy, thu nhập trung bình năm của cả thành phố chỉ tăng 66%.
"Dù có làm chăm chỉ cỡ nào thì vẫn rất khó để mua được nhà," - Terence Chong thẳng thắn nói. "Trong một xã hội, nếu thấy hy vọng từ chuyện làm việc chăm chỉ có thể mua được nhà, bạn sẽ làm việc. Nhưng khi hy vọng chẳng thấy đâu, thì bạn sẽ muốn buông xuôi."
Với Trung Quốc, "tang ping" là một xu hướng mới. Nhưng ở các nước Đông Á, giới trẻ đã chịu đựng điều này nhiều năm trời, và nó dẫn đến những quyết định tiêu cực.
Ở tuổi 22, Shin Ye-rim đã từ bỏ ý định kết hôn, sinh con hay mua nhà. "Tôi nghĩ vấn đề lớn nhất là giá nhà tăng quá cao," - Shin, sinh viên ĐH Yonsei danh giá tại Seoul cho biết. Cô cũng nói mình chẳng thể biết bản thân liệu có nuôi nổi một đứa trẻ hay không.
Năm 2011, báo chí Hàn Quốc xuất hiện khái niệm "sampo" - tạm dịch là "tam buông bỏ", ám chỉ một thế hệ buông bỏ hẹn hò, kết hôn và sinh con. Năm 2014, họ bổ sung thêm vấn đề mua nhà và quan hệ xã hội vào danh sách này, và một khái niệm khác ra đời. Đó là "opo" - thế hệ "ngũ buông bỏ". Và thậm chí, danh sách ấy ngày càng nhiều hơn, khiến người ta quyết định để vào đó tiền tố "n" - n-po, nghĩa là từ bỏ nhiều thứ không đếm xuể.
Năm 2017, 74% người trưởng thành tại Hàn Quốc cho biết họ đã từ bỏ ít nhất 1 mục đích sống. Có thể là kết hôn, hẹn hò, giải trí, mua nhà, hoặc nhiều khía cạnh khác với nguyên nhân là vì khó khăn tài chính.
Giống như nhiều quốc gia khác, áp lực của giới trẻ Hàn Quốc trên thị trường việc làm cũng gia tăng. năm 2020, tỉ lệ thất nghiệp của Hàn Quốc là 4% - mức cao nhất trong suốt 19 năm. Trong đó, 9% là người từ 15 đến 29 tuổi.
"Thị trường việc làm trở nên rất nghèo nàn, dẫn đến chuyện kiếm việc khó khăn," - Lim, giáo sư ĐH Keimyung cho biết. "Khi không có việc, bạn sẽ có ít lựa chọn cho tương lai hơn."
Bên cạnh đó còn một số lý do khác khiến giới trẻ Hàn Quốc buông bỏ vai trò truyền thống của mình. Nữ quyền - vấn đề đang nổi lên ở Hàn Quốc do nạn phân biệt giới tính và tội phạm tình dục số gia tăng - là một ví dụ.
Shin cho biết mẹ cô đã bỏ việc sau khi sinh cô và em gái. Tuy nhiên vào lúc này, Shin không muốn để hôn nhân cản bước sự nghiệp của mình, giống như mẹ cô đã từng.
"Tôi nghĩ chồng sẽ gây cản trở công việc và những thứ tôi muốn làm. Tôi đã học tập và làm việc rất nhiều, và tôi không muốn từ bỏ tất cả chỉ để lấy chồng hoặc sinh con."
Giới trẻ tại Nhật Bản cũng đang mệt mỏi từ những áp lực trong công việc, và vì xu hướng kinh tế đình trệ suốt nhiều năm. Một số người gọi đây là "satori sedai" (tạm dịch: thế hệ buông bỏ) - một thuật ngữ bắt nguồn từ năm 2010. Nó ám chỉ thái độ bi quan với tình hình xã hội, và thiếu đi khát khao cống hiến.
"Tôi chỉ chi tiền cho những gì tôi thích, và tìm thấy giá trị sống trong đó," - Kanta Ito, 25 tuổi, người tự nhận mình là một satori sedai theo chủ nghĩa tối giản. Ito có mức lương khá ổn từ việc làm tại công ty tư vấn tại Tokyo, nhưng chẳng quan tâm đến những thứ "phù phiếm" như mua nhà hay mua xe.
Kanta Ito tự mô tả mình là một người thuộc thế hệ satori
Trong một khảo sát trên 2824 người có độ tuổi từ 16 - 35 ở Nhật Bản vào năm 2017, 26% cho biết họ thuộc thế hệ satori.
"Họ có thể làm những gì được trông đợi, nhưng sẽ không cố gắng vượt qua mức đó," - Sachiko Horiguchi, phó giáo sư nhân chủng học từ ĐH Temple (Nhật Bản). "Họ ít quan tâm đến vật chất, cũng không hứng thú đến chuyện chi tiêu."
"Sự buông bỏ này một phần đến từ khoảng cách thế hệ, giữa những người từng chứng kiến nền kinh tế phát triển và thế hệ sau này."
Nền kinh tế của Nhật Bản đã giữ ở mức trì trệ sau cơn khủng hoảng nhà đất hồi đầu thập niên 1990. Mức tăng trưởng GDP cũng rất chậm chạp, theo số liệu từ Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi.
"Mức lương của họ không tăng lên so với đà đi xuống của nền kinh tế. Có nghĩa họ sẽ không thấy mình thu lại được những gì xứng đáng với công sức đã bỏ ra," - Horiguchi nói thêm.
Với Nanako Masubuchi, sinh viên 21 tuổi tại ĐH Gakushuin (Tokyo), mức lương là một trong những lý do khiến cô theo đuổi ước mơ ra nước ngoài làm việc sau khi tốt nghiệp.
"Với nền kinh tế này, tôi không thể thấy lạc quan được."
Nguồn: CNN
Trí thức trẻ