Đôi khi tôi có cảm giác anh ấy như vậy thật. Chúng tôi rất dễ chuyện trò vui vẻ với nhau, cách tư duy của chúng tôi cũng giống nhau. Chúng tôi đưa mắt nhìn nhau khi thấy mọi người xung quanh căng thẳng tới phát rồ, khi các cộng sự đưa ra mấy lời bình luận trịch thượng hoặc chẳng ăn nhập gì với thực tế. Có một điều không cần phải nói ra nhưng rất hiển nhiên, đó là anh ấy là “người trong nhà”, và trong văn phòng của chúng tôi, nơi đang thuê hơn bốn trăm luật sư, chỉ có chừng năm luật sư toàn thời gian là người Mỹ gốc Phi. Thật rõ ràng và dễ hiểu khi chúng tôi thu hút lẫn nhau.
Barack không hề giống kiểu luật sư tập sự mùa hè năng nổ điển hình (như tôi hai năm trước ở Sidley), những người vội vàng thiết lập mạng lưới mối quan hệ và hồi hộp không biết mình có nhận được tấm vé vàng mời nhận việc hay không. Anh thong dong trong bộ dạng thờ ơ điềm tĩnh, mà điều này dường như chỉ khiến anh thêm hấp dẫn trong mắt người khác. Tiếng tăm của anh không ngừng tăng lên trong công ty. Chưa chi anh đã được gọi tham gia các cuộc họp cao cấp với các luật sư cộng sự. Thậm chí anh còn được yêu cầu góp ý về bất cứ vấn đề nào đang được thảo luận. Có một lần vào đầu hè, anh đưa ra một bản ghi nhớ ba-mươi-trang về quản lý tập đoàn, và rõ ràng là nó thấu đáo cũng như thuyết phục đến mức lập tức trở thành huyền thoại. Anh chàng này là ai? Mọi người đều tò mò muốn biết.
“Tôi đem cho em một bản đây”, một ngày kia Barack đặt bản ghi nhớ đã soạn lên bàn tôi, kèm theo một nụ cười.
“Cảm ơn anh”, tôi đón lấy. “Em đang đợi được đọc nó đây.” Sau khi anh ấy đi ra, tôi cất bản ghi nhớ vào ngăn kéo.
Anh ấy có biết tôi chưa bao giờ giở nó ra hay không? Tôi nghĩ là có. Anh ấy đưa tôi bản ghi nhớ đó với thái độ nửa đùa nửa thật. Dù sao thì chúng tôi cũng thuộc hai nhóm chuyên trách khác nhau nên tài liệu mà chúng tôi dùng cũng không giống nhau. Bản thân tôi đã có quá nhiều tài liệu cần xử lý rồi. Và tôi không cần ngạc nhiên thêm nữa. Giờ đây chúng tôi - Barack và tôi - là bạn bè, là chiến hữu. Chúng tôi cùng đi ăn trưa ít nhất một lần một tuần, có khi thường xuyên hơn, và tất nhiên luôn ghi hóa đơn cho công ty.
Dần dần, chúng tôi hiểu nhau hơn. Anh biết tôi đang sống cùng cha mẹ, biết những ký ức hạnh phúc nhất của tôi ở Trường Luật Harvard đến từ công việc tôi làm ở Văn phòng Hỗ trợ Pháp lý. Tôi biết anh đã ngốn hàng đống triết lý chính trị như thể đó là tiểu thuyết giải khuây trên bãi biển, biết hễ có tiền dư thì anh đều dành để mua sách. Tôi biết cha của anh qua đời trong một vụ tai nạn ô-tô ở Kenya, và anh đã đến nơi đó chỉ để hiểu thêm về ông ấy. Tôi biết anh thích chơi bóng rổ, biết anh thường chạy bộ một quãng đường dài vào cuối tuần và hay kể về bạn bè cũng như gia đình mình ở Oahu với vẻ trầm tư. Tôi biết anh từng có kha khá bạn gái trong quá khứ, nhưng lúc này thì không có mối quan hệ ràng buộc nào.
Tôi nghĩ mình có thể hỗ trợ anh khắc phục khoản “không có mối quan hệ ràng buộc”. Cuộc sống của tôi ở Chicago chủ yếu chỉ toàn tụ tập với những phụ nữ da đen tài năng và thành đạt. Bất chấp những giờ làm việc cắm đầu cắm cổ, tôi vẫn thích được giao tiếp. Tôi có bạn bè ở Sidley, bạn trung học, bạn bè quen biết qua mạng lưới công việc và những người bạn tôi quen qua anh Craig, người vừa kết hôn và làm nghề nhân viên ngân hàng đầu tư trong thành phố.
Chúng tôi là một hội bạn bè vui vẻ, hội họp với nhau vào bất kỳ lúc nào có thể ở một quán bar nào đó trong khu trung tâm hoặc gặp nhau cuối tuần trong những bữa ăn xa hoa kéo dài. Tôi từng hẹn hò với vài anh chàng ở trường luật nhưng chưa gặp được người nào đặc biệt từ khi về lại Chicago, mà đằng nào thì tôi cũng chẳng có mấy hứng thú với chuyện này. Tôi tuyên bố với mọi người, bao gồm những đối tượng tiềm năng, rằng sự nghiệp mới là ưu tiên của tôi vào lúc này. Dù vậy, tôi lại có rất nhiều cô bạn gái đang tìm người để hẹn hò.
Một tối nọ vào đầu hè, tôi dẫn Barack tới một quán bar ở trung tâm vào giờ giảm giá. Đó là điểm tụ tập không chính thức hàng tháng của người da đen trí thức, và cũng là nơi tôi thường gặp gỡ bạn bè. Tôi để ý thấy anh đã thay quần áo công sở và mặc một chiếc áo blazer vải lanh trắng trông như vừa được lấy ra từ bộ phim Miami Vice. À há!
Không có gì phải bàn cãi rằng bất kể gu ăn mặc hơi có vấn đề của mình, Barack vẫn luôn cuốn hút. Anh điển trai, điềm đạm và thành đạt. Anh cũng có máu thể thao, thú vị và còn tử tế nữa. Người ta còn có thể đòi hỏi gì hơn? Tôi hào hứng đi vào quán bar, chắc mẩm là mình đang làm điều có ích cho mọi người - cho chính Barack và cho tất cả các quý cô có mặt ở đó. Gần như ngay lập tức, anh đã “được” một người quen của tôi tóm lấy. Đó là một phụ nữ xinh đẹp, quyền cao chức trọng và làm trong ngành tài chính. Tôi có thể thấy cô nàng hoạt bát hẳn lên khi nói chuyện với Barack. Thấy vậy là ổn, tôi gọi cho mình một ly và đi qua bàn khác gặp mấy người bạn.
Hai mươi phút sau, tôi nhìn thấy Barack ở góc xa căn phòng, anh có vẻ đang ở trong một cuộc trò chuyện không hồi kết với người phụ nữ kia, mà chính xác thì chỉ có cô nàng đang huyên thuyên. Anh ấy ném cho tôi một cái nhìn với ngụ ý xin được giải nguy. Nhưng anh ấy là một người đàn ông trưởng thành, thế nên tôi để mặc anh ấy tự cứu mình.
Hôm sau anh xuất hiện ở văn phòng tôi và hỏi với vẻ vẫn còn ngờ vực. “Em có biết cô ta hỏi tôi chuyện gì không? Cô ấy hỏi tôi có thích đi cưỡi không. Cưỡi ngựa ấy.” Anh ấy kể là cả hai nói về những bộ phim ưa thích, nhưng chuyện đó cũng không suôn sẻ lắm.
Barack là người có đầu óc, có lẽ là quá đầu óc đối với hầu hết phụ nữ. (Trên thực tế, đây chính là đánh giá của các bạn tôi về anh khi chúng tôi nói chuyện với nhau.) Anh không phải kiểu đàn ông thích la cà quán bar vào giờ giảm giá, và lẽ ra tôi nên nhận ra điều đó sớm hơn. Thế giới của tôi đầy những người giàu hy vọng, nỗ lực và ám ảnh về sự thăng tiến trong công việc.
Họ tậu xe hơi, sẵn sàng sắm cho mình căn hộ đầu tiên và thích nói về những chuyện đó bên những ly martini sau giờ làm việc. Barack thì sẽ thỏa mãn hơn khi được yên tĩnh một mình vào buổi tối để đọc về chính sách nhà cửa đô thị. Hồi còn là nhà tổ chức sự kiện, anh từng dành nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng lắng nghe người nghèo chia sẻ những khó khăn mà họ gặp phải. Tôi bắt đầu nhận ra sự kiên định của anh đối với hy vọng và triển vọng của sự thay đổi bắt nguồn từ một nơi hoàn toàn khác và không dễ tiếp cận.
Anh kể tôi nghe rằng anh từng là một người vô tư và phóng túng hơn. Hai mươi năm đầu tiên của cuộc đời mình, anh được biết đến với biệt danh Barry. Hồi còn thiếu niên, anh hút cần sa dưới chân những ngọn núi lửa um tùm cây cối ở Oahu. Ở trường Occidental, anh theo đuổi phong cách đang lụi tàn của thập niên 1970, vẫn yêu thích Hendrix và nhóm Rolling Stones. Nhưng rồi đâu đó trên hành trình của mình, anh bắt đầu sống trọn vẹn với tên khai sinh Barack Hussein Obama, cũng như với nhân dạng phức tạp của mình. Anh vừa trắng lại vừa đen, vừa là gốc Phi lại vừa mang gốc Mỹ.
Anh khiêm tốn và sống giản dị, nhưng anh cũng biết sự trù phú của tâm trí mình, biết cái thế giới đặc quyền đặc lợi mà tâm trí đó sẽ mở ra trước mắt anh. Tôi có thể nói là anh rất nghiêm túc với tất cả những điều đó. Anh có thể vui vẻ thoải mái và hài hước, nhưng chưa bao giờ anh quên nghĩa vụ to lớn hơn của mình. Anh đang trên đường chinh phục một sứ mệnh nào đó, dù anh vẫn chưa biết nó sẽ dẫn đến đâu. Tất cả những gì tôi biết là sứ mệnh đó không đồng nghĩa với những ly rượu. Lần sau, khi tới giờ vàng giảm giá, tôi để anh ở lại văn phòng.
Hồi tôi còn bé, cha mẹ tôi đều hút thuốc. Họ đốt thuốc vào buổi tối khi ngồi trong bếp trò chuyện về ngày làm việc của mình. Họ hút thuốc khi lau dọn chén đĩa sau bữa ăn tối, thỉnh thoảng họ sẽ mở một cánh cửa sổ để không khí trong lành tràn vào. Họ không hút nhiều, nhưng họ hút thuốc như thói quen, và còn hút dai nữa. Họ vẫn tiếp tục hút thuốc kể cả sau khi nghiên cứu đã nói rất rõ là hút thuốc không tốt cho sức khỏe.
Barack hút thuốc giống hệt cha mẹ tôi. Anh hút thuốc sau bữa ăn, hút thuốc khi đang xuống phố hoặc khi cảm thấy căng thẳng và không thể để hai tay rảnh rang. Barack biết chính xác tôi cảm thấy thế nào về chuyện anh hút thuốc. Tình bạn giữa chúng tôi được xây dựng trên sự thẳng thắn mà tôi cho rằng cả hai chúng tôi đều yêu thích.
“Tại sao một người thông minh như anh lại làm cái chuyện dại dột như vậy?”, tôi buột miệng hỏi ngay ngày đầu tiên gặp nhau, khi thấy anh kết thúc bữa trưa bằng một điếu thuốc. Đó là một câu hỏi thật lòng.
Theo tôi nhớ thì anh chỉ nhún vai, công nhận là tôi đúng. Không có gì phải tranh cãi, cũng không có điểm gì cần thảo luận. Hút thuốc là chủ đề duy nhất mà cái đầu logic của Barack không đụng tới.
Dù tôi có thừa nhận hay không thì giữa chúng tôi có một điều gì đó đã bắt đầu thay đổi. Vào những ngày chúng tôi quá bận rộn đến mức không thể gặp mặt nhau, tôi luôn tự hỏi anh ấy đang làm gì. Tôi tự nhủ đừng thất vọng khi không thấy anh ấy xuất hiện trước cửa phòng làm việc của mình. Tôi tự nhủ đừng quá phấn khích khi thấy anh ấy xuất hiện. Tôi có tình cảm với anh, nhưng tình cảm này vẫn đang âm ỉ chôn sâu bên dưới quyết tâm tập trung giữ cho cuộc sống của mình gọn gàng và thăng tiến trong sự nghiệp, không dính vào những chuyện kịch tính. Những bản đánh giá kết quả công việc hàng năm của tôi đều ổn định. Tôi đang đi đúng đường để trở thành luật sư có cổ phần tại Sidley & Austin, có lẽ là trước tuổi ba mươi hai. Đó là tất cả những gì tôi mong muốn, hoặc tôi đang tự thuyết phục mình như vậy.
Có thể tôi đã phớt lờ những gì đang nảy nở giữa hai chúng tôi, nhưng Barack thì không.“Anh nghĩ là chúng ta nên hẹn hò”, anh nói vào một chiều nọ khi chúng tôi đang ngồi dùng bữa.
“Hả? Anh và em?”. Tôi giả vờ kinh ngạc vì anh nghĩ tới khả năng đó. “Em đã nói với anh rồi, em không hẹn hò. Và em là cố vấn của anh.”
Anh ấy cười với vẻ hài hước. “Em làm như chuyện đó thì có ảnh hưởng gì vậy. Em không phải là sếp của anh.” Sau đó anh chốt, “Và em khá đáng yêu đấy”.
Barack có một nụ cười dường như rộng đến mang tai. Anh là sự kết hợp chết người giữa tình cảm và lý trí. Suốt những ngày kế tiếp, không dưới một lần anh đã bày ra bằng chứng tại sao chúng tôi nên hẹn hò. Chúng tôi tâm đầu ý hợp. Chúng tôi làm cho nhau cười. Chúng tôi đều không vướng bận bạn trai bạn gái, và hơn nữa, chúng tôi đã thừa nhận rằng hoàn toàn không có hứng thú gì với bất kỳ người nào khác mình từng gặp. Anh ấy lập luận rằng chẳng ai ở công ty sẽ bận tâm chuyện chúng tôi hẹn hò với nhau. Thật ra thì chuyện đó còn có thể được xem là một tín hiệu lạc quan. Anh nhận định là những luật sư cổ đông trong công ty rồi sẽ muốn giữ anh lại làm việc cho họ, và nếu chúng tôi hẹn hò nhau thì chuyện này sẽ làm tăng khả năng anh trung thành với công ty.
“Ý anh là em giống mồi nhử sao?”, tôi cười phá lên. “Anh tự đánh giá mình cao quá rồi.”
Vào mùa hè, công ty tổ chức hàng loạt sự kiện và các buổi giao lưu cho các luật sư thực tập, ai muốn tham gia thì chỉ cần đăng ký vào tờ đơn được chuyền khắp công ty. Một sự kiện trong số đó là đi xem suất diễn trong tuần của vở nhạc kịch Les Misérables tại một nhà hát gần văn phòng. Tôi đăng ký nhận hai vé, một hành vi vô cùng bình thường của một cô luật sư cố vấn và luật sư thực tập mà cô ta dẫn dắt trong hè. Chúng tôi cần cùng nhau tham gia những hoạt động của công ty. Nhiệm vụ của tôi là anh ấy có trải nghiệm tích cực và vui vẻ ở Sidley & Austin. Chỉ có vậy thôi.
Chúng tôi ngồi cạnh nhau trong nhà hát, cả hai đều mệt mỏi sau một ngày làm việc dài. Vở kịch mở màn và tiếng hát bắt đầu cất lên, chúng tôi được thấy hình ảnh một Paris u ám. Tôi không biết do tâm trạng của mình hay do bản thân vở nhạc kịch, nhưng suốt một giờ đồng hồ sau đó tôi thấy khổ sở trước sự thống khổ của người dân nước Pháp. Những lời than van và cảnh gông cùm. Nạn đói nghèo và cưỡng hiếp. Bất công và đàn áp. Hàng triệu người trên thế giới đã yêu thích vở nhạc kịch này, nhưng tôi lại bồn chồn không yên, cố thoát ra khỏi sự tra tấn không thể nào lý giải được mỗi khi giai điệu của vở kịch vang lên.
Khi đèn nhà hát bật sáng báo giờ giải lao, tôi trộm nhìn Barack. Anh ấy đang ngồi sụp xuống ghế, chỏ tay phải đặt trên thành ghế và ngón trỏ tựa lên trán. Tôi không đoán được biểu cảm của anh có ý gì.
“Anh nghĩ sao?”, tôi hỏi.
Anh liếc nhìn tôi. “Khủng khiếp, phải không em?”
Tôi cười, cảm thấy nhẹ nhõm vì anh ấy cũng có cảm nhận giống mình. Barack ngồi thẳng lưng trở lại. “Chúng ta ra ngoài nhé?”, anh hỏi.
“Chúng ta có thể không xem nữa mà.”
Bình thường thì tôi sẽ không trốn chạy. Tôi không phải kiểu người như vậy. Tôi quá quan tâm đến những gì các luật sư khác nghĩ về mình. Họ sẽ nghĩ sao nếu phát hiện hai chiếc ghế trống? Nhìn chung, tôi quá quan tâm việc phải hoàn thành những gì mình đã bắt đầu, phải xem mọi điều, từ nhỏ nhặt nhất cho đến đoạn kết nghẹt thở, cho dù đó là một vở nhạc kịch Broadway quá cầu kỳ vào một đêm thứ Tư lẽ ra rất vui vẻ. Thật không may, đây chính là một nguyên tắc của tôi. Tôi chịu đựng đau khổ để giữ thể diện cho bản thân. Nhưng giờ đây, dường như tôi đang đi cùng một người không có suy nghĩ như thế.
Né hết mọi người chúng tôi quen biết ở hãng luật - những cố vấn và thực tập sinh của họ đang trò chuyện sôi nổi ở hành lang - chúng tôi lẻn ra ngoài nhà hát và bước vào một buổi chiều dịu êm. Những tia sáng cuối cùng đang le lói trên nền trời màu tím. Tôi thở phào, sự nhẹ nhõm của tôi rõ ràng đến mức khiến Barack cười phá lên.
“Chúng ta đi đâu đây?”, tôi hỏi anh. “Đi uống một ly thì sao?”
Chúng tôi bước vào một quán bar gần đó theo đúng phong cách thường ngày của mình: tôi nhanh còn anh ấy thì chậm. Barack là người bước đi thong thả. Anh ấy có bộ dạng thoải mái kiểu Hawaii, không bao giờ hối hả, ngay cả khi - và đặc biệt là khi - được yêu cầu phải nhanh chân lên. Trái lại, tôi có bước chân mạnh mẽ kể cả lúc đang rỗi rãi, và đối với tôi thì giảm tốc độ di chuyển là một chuyện khá khó khăn. Nhưng tôi nhớ đêm đó tôi đã tự nhủ mình hãy chậm lại, chỉ một chút thôi, đủ để tôi có thể nghe anh ấy đang nói gì, vì tôi bắt đầu nhận ra mình quan tâm mọi điều anh ấy nói.
Khi chúng tôi lái xe về lại thành phố vào tối hôm đó, tôi cảm thấy một sự thổn thức mới chớm, một hạt giống ngóng trông vừa mới gieo. Khi đó đang là tháng Bảy. Barack sẽ rời đi trong tháng Tám, anh sẽ biến mất vào trường luật và vào bất cứ cuộc sống nào khác chờ đợi anh ở đó. Bề ngoài, giữa chúng tôi chẳng có gì thay đổi. Chúng tôi cười đùa như trước giờ vẫn thế, chúng tôi tán gẫu về việc ai nói điều gì trong bữa tiệc nướng. Nhưng tôi cảm thấy cái nóng râm ran đang chạy dọc theo sống lưng mình. Tôi cảm nhận rất rõ cơ thể của anh trong không gian nhỏ hẹp của xe - chỏ tay anh đặt lên hộp giữa, đầu gối anh nằm trong tầm với của tay tôi. Khi chúng tôi rẽ vào khúc bo phía nam Đường Lake Shore, vượt qua những người đạp xe và chạy bộ trên đường bộ hành, tôi đang đấu tranh tư tưởng với chính mình. Có cách nào để làm điều này mà không biến nó thành chuyện nghiêm trọng hay không? Chuyện này sẽ ảnh hưởng đến công việc của tôi đến mức nào? Tôi không xác định được bất kỳ chuyện gì - tôi không biết làm thế nào mới là đúng, không biết ai sẽ phát hiện và chuyện đó có quan trọng nữa hay không - nhưng tôi chợt phát hiện mình không còn muốn chờ cho đến khi biết rõ nữa.
Barack sống ở khu Công viên Hyde, trong một căn hộ thuê lại của một người bạn. Đến lúc chúng tôi rẽ vào khu phố thì bầu không khí căng thẳng đã tràn ngập giữa chúng tôi, như thể một điều tất yếu hoặc tiền định nào đó sắp sửa xảy ra. Hay là tôi đang tưởng tượng? Có lẽ tôi đã từ chối anh ấy quá nhiều lần. Có lẽ anh đã từ bỏ và giờ đây chỉ xem tôi là một người bạn tốt và đáng tin cậy, một cô gái sở hữu chiếc Saab có máy điều hòa nhiệt độ có thể cho anh quá giang mỗi khi cần.
Tôi dừng xe trước tòa nhà nơi anh ấy sống, tâm trí vẫn còn rối tung rối mù. Một khoảnh khắc kỳ quặc trôi qua, ai nấy cũng chờ người kia mở lời tạm biệt. Barack ngẩng đầu về phía tôi.
“Hay là mình đi ăn kem?”, anh hỏi.
Đó là khi tôi biết cuộc chơi đã bắt đầu, là một trong những lần hiếm hoi tôi quyết định ngưng nghĩ ngợi và chỉ sống. Đó là một tối mùa hè ấm áp tại thành phố mà tôi yêu quý. Bầu không khí dễ chịu đang mơn man trên da thịt. Có một tiệm Baskin-Robbins ở dãy nhà gần căn hộ của Barack, chúng tôi đã đến đó mua hai cốc kem và mang ra ngoài và ngồi ăn trên vỉa hè. Chúng tôi ngồi cạnh nhau, co gối, tận hưởng sự mệt mỏi dễ chịu sau một ngày ở suốt ngoài trời. Chúng tôi lẳng lặng ăn kem thật nhanh trước khi nó tan hết. Có lẽ Barack đã đọc được trên khuôn mặt tôi, hoặc đã cảm nhận qua bộ dạng của tôi là tôi đang thả lỏng và mở lòng.
Anh nhìn tôi một cách tò mò với một nụ cười vừa hé trên môi. “Anh hôn em nhé?”, anh ấy hỏi.
Và cứ thế, tôi tựa vào anh, cảm nhận mọi thứ đang trở nên sáng tỏ.
Trích sách “Chất Michelle”