Làn sóng đầu tiên của toàn cầu hoá là mở thị trường mới cho các công ti ở các nước đã phát triển để bán sản phẩm cho khách hàng ở nước đang phát triển nhưng cuối cùng xu hướng này bị đảo ngược khi cạnh tranh giữa các nước trở nên mãnh liệt hơn. Làn sóng thứ hai của toàn cầu hoá bây giờ bắt đầu hình thành, những công nghệ thúc bẩy như internet cho phép “công ti vô danh” cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho khách hàng ở bất kì đâu và vào bất kì lúc nào.
Chẳng hạn một công ti nhỏ ở một làng xa xôi ở châu Phi có thể tạo ra một website để bán sản phẩm cho khách hàng ở New York, Paris, và Hong Kong, chừng nào họ có phương tiện gửi hàng hoá cho khách hàng nhanh chóng và thoả đáng. Một kĩ sư phần mềm với kĩ năng chuyên môn ở Ba Lan có thể dễ dàng làm việc cho một công ti ở California mà không phải rời khỏi Ba lan, vì người đó có thể đòi lương ít hơn nhiều, vì chi phí sống ở Ba Lan thấp hơn, người đó có thể cạnh tranh với các kĩ sư khác ở Mĩ.
Những người cạnh tranh “làn sóng thứ hai” này nổi lên từ mọi ngóc ngách trên thế giới đóng góp cho một xu hướng toàn cầu mới hướng tới sản phẩm hoá nhiều hơn, làm cho mọi công ti đều khó khăn hơn trong việc duy trì vai trò chi phối trên thị trường. Với làn sóng toàn cầu hoá thứ hai này, các nước đang phát triển có thể bắt kịp hay vượt qua các nước đã phát triển bởi vì qui tắc kinh doanh đã thay đổi: “Kẻ lớn sẽ KHÔNG đánh bại kẻ nhỏ, nhưng kẻ nhanh SẼ đánh bại kẻ chậm.”
Ta hãy nhìn vào một số sự kiện: việc chấp nhận rộng rãi công nghệ thông tin đã làm cho một số nước đang phát triển đi nhanh hơn các cường quốc toàn cầu trong khung cảnh phát kiến đổi mới. Tạp chí Time lưu ý vào đầu năm 2008 rằng, mặc dầu đã có tăng trưởng hàng năm 4.7% về ứng dụng bằng phát minh toàn cầu, con số bằng phát minh ở Trung Quốc, từ 1995 tới 2005, đã tăng 800%. Dựa trên dữ liệu này, tạp chí Time dự đoán rằng nhiều phát kiến và bằng phát minh tương lai về khoa học và công nghệ có thể dần tới từ các nước đang phát triển bởi vì họ tập trung nhiều hơn vào các miền này và miền này có thể thay đổi cân bằng kinh tế thiên về họ nhiều hơn.
Theo một nghiên cứu của Đại học Harvard, đến 2025, nền kinh tế của Brazil, Ấn Độ và Trung Quốc được dự phóng tăng trưởng một nửa kích cỡ của Nhóm G7, vốn bao gồm Pháp, Đức, Italy, Nhật, Nga, Anh và Mĩ. Ngày nay nền kinh tế của ba nước này chỉ chứa ít hơn 15% của G7. Làm sao họ có thể đi từ 15% tới 50% trong một thời gian rất ngắn? Đại học Harvard kết luận rằng chính phủ Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil hiểu ưu thế của toàn cầu hoá và việc thiết lập nền công nghiệp tri thức cho nên họ đầu tư nặng vào giáo dục và công nghệ để tăng tốc xu hướng này. Sự kiện là Trung Quốc và Ấn Độ đã cho tốt nghiệp trên một triệu kĩ sư hàng năm là dấu hiệu rằng họ đang lập kế hoạch để chi phối miền này.
Sự kiện khác là cả hai chính phủ Trung Quốc và Brazil đều khuyến khích việc dùng năng lượng mặt trời và sức gió để tránh phụ thuộc vào dầu và tránh việc ấm lên toàn cầu là dấu hiệu mạnh khác rằng họ đang tiến lên hàng đầu trong khi ở Mĩ, người ta vẫn còn tranh cãi chẳng đi tới kết luận nào, liệu việc ấm lên toàn cầu là hiện tượng tự nhiên hay nó do việc công nghiệp hoá của con người gây ra.
Ngày nay, với giáo dục và chỉ đạo đúng, phát kiến công nghệ không còn là tầm ảnh hưởng riêng của các công ti trong nền kinh tế đã phát triển. Thời đại thông tin đang thay thế thời đại công nghiệp, hội tụ vào công nghệ cao, đặc biệt các qui trình công nghệ xanh. Các doanh nghiệp công nghệ mới này là động cơ tăng trưởng dẫn lái các cơ hội mới trong cải tiến kinh tế, năng suất, phát kiến và gia tăng giá trị cho kinh doanh. Thế giới “phẳng hơn” đã tác động tới cả các nước đã và đang phát triển khi kinh doanh tiếp tục thay đổi và điều chỉnh.
Hiện thời nhiều nước đang phát triển đã cưỡi lên làn sóng công nghệ và không chỉ đơn thuần nhấn mạnh và sản xuất chế tạo. Trung Quốc đã dịch chuyển nhiều nhà máy chế tạo sang các nước khác và hội tụ nhiều hơn vào công nghệ cao như điện tử và viễn thông. Brazil đang đặt nhiều nỗ lực hơn vào công nghệ sinh học xem như nhân tố tạo khả năng kinh tế then chốt thay vì các nhà máy dây chuyền lắp ráp trước đây. Tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển vẫn duy trì việc lắp ráp chế tạo thay vì chuyển sang xuất khẩu “công nghệ cao” mặc cho tác động có hại của công nghiệp hoá và việc phá hỏng đất đai vĩnh viễn của họ. Lí do chính là thiếu tri thức và kĩ năng để làm những thay đổi công nghệ xảy ra bởi vì hệ thống giáo dục của họ không được thiết kế để bắt kịp với những thay đổi này.
Nhiều nước ở châu Phi và Trung Mĩ sẽ tiếp tục vật lộn bởi vì họ không có tầm nhìn, kết cấu nền, kĩ năng quản lí và kĩ thuật, hệ thống giáo dục hội tụ vào khoa học để giải quyết các chướng ngại như nghèo nàn, tội phạm, và thất học. Nhiều nước có thể bị “ngắt” ra khỏi xu hướng toàn cầu mới và bị bỏ lại sau mà không hi vọng gì theo kịp do sự mãnh liệt của cạnh tranh toàn cầu.
Xu hướng toàn cầu hoá cũng đang ném nhiều công ti vào khủng hoảng bởi vì môi trường kinh doanh thay đổi nhanh hơn họ có thể bao quát được. Nhiều mô hình kinh doanh dựa trên cấu trúc cứng nhắc không thể áp dụng được qua các biên giới kinh tế và văn hoá. Trong khi mọi công ti đều có mô hình kinh doanh duy nhất đóng góp cho sự thành công của nó, một công ti toàn cầu phải giữ cân bằng mô hình kinh doanh của mình với văn hoá duy nhất của các nước mới, vùng mới hay thị trường mới.
Ts. Robert Rycroft tại Đại học George Washington dự đoán rằng trong mười năm tới, mô hình kinh doanh sẽ thay đổi từ mở rộng công nghệ sang cộng tác công nghệ. Cách tiếp cận mở rộng truyền thống được dẫn lái bởi việc kiểm soát ngân sách kinh doanh cứng nhắc và cấu trúc tổ chức phân cấp cứng sẽ không có tác dụng trong môi trường toàn cầu linh hoạt. Để tồn tại trong thế kỉ 21, các công ti toàn cầu phải hội tụ vào việc cục bộ hoá có kết mạng các thị trường, với nhấn mạnh vào qui trình, công nghệ và con người, do vậy làm cân bằng việc tập trung hoá và phi tập trung hoá. Trong cái phức tạp thị trường toàn cầu hoá, hiệu năng thành công sẽ dựa trên bốn năng lực: Khả năng cộng tác, khả năng hiểu và đáp ứng với thay đổi, khả năng bản địa hoá, và khả năng phát kiến.
Các yêu cầu năng lực mới này sẽ thay đổi cách các trường kinh doanh cung cấp đào tạo quản lí đặc biệt trong chương trình MBA. Ts. Rycroft tin rằng với toàn cầu hoá, Quản lí hệ thông tin (MIS) hay Quản lí công nghệ thông tin (MSIT) sẽ “phù hợp hơn” so với chương trình Thạc sĩ về quản trị kinh doanh (MBA). Phần lớn chương trình MBA đều hội tụ vào tài chính và quản lí dựa trên mô hình kinh doanh của “văn hoá phương tây” nơi tổ chức phân cấp và “kiểm soát trên xuống” là chuẩn.
Với công nghệ bây giờ đóng vai trò chiến lược quan trọng, việc gióng thẳng kinh doanh và công nghệ là sự hội tụ chính của các chương trình MIS và MSIT và sự linh hoạt này mang tính thích ứng với mô hình kinh doanh toàn cầu hơn là mô hình MBA. Ông ấy kết luận việc nghiên cứu của mình bằng việc động viên quản lí cấp cao:
1) Kiểm điểm lại cách tiếp cận của công ti tới toàn cầu hoá và tài sản xem liệu bộ phận công nghệ thông tin có hỗ trợ cho thị trường toàn cầu không.
2) Đưa phát kiến và công nghệ thông tin lên đỉnh của danh sách ưu tiên chiến lược.
3) Thiết lập các chương trình huấn luyện để làm cho cán bộ quen thuộc với cả hoàn cảnh công nghệ và văn hoá cho các thị trường mà trong đó công ti vận hành và có ý định vận hành.
4) Phát triển cấu trúc tổ chức linh hoạt tạo khả năng và duy trì mô hình kinh doanh cộng tác.
5) Tạo khả năng các qui trình tạo ra con đường cộng tác giữa công ti và khách hàng bên ngoài.
Ông ấy cũng tin rằng khách hàng toàn cầu, được tạo điều kiện bởi luồng thông tin và tiền tự do, sẽ định nghĩa lại cấu trúc kinh tế, thương mại, luật pháp, văn hoá, xã hội và công ti. Với toàn cầu hoá, không nước nào có thể đứng cô lập mà là một phần của mạng toàn cầu và các nước với công nghệ thông tin và truyền thông mạnh sẽ được lợi nhất. Ông ấy dự đoán rằng sẽ có:
1) Sức ép liên tục lên thoả thuận thương mại giữa các nước để làm giảm rào cản thương mại. Sức ép như vậy sẽ làm tăng tích hợp dây chuyền cung cấp và sự tương thuộc, dẫn lái cộng tác và chia sẻ công nghệ.
2) Tính biến thái tăng lên và việc lấy lại cân bằng của luồng ngân quĩ giữa các nước sẽ định hình lại các thoả thuận thương mại toàn cầu.
3) Việc phân phối lại có ý nghĩa và liên tục các kĩ năng trên qui mô toàn cầu nơi mọi người có thể làm việc cho các công ti toàn cầu mà không phải đổi vị trí.
4) Nhu cầu về tài năng sẽ tiếp tục tăng lên đặc biệt trong phần mềm và công nghệ thông tin.
5) Nhiều mạng truyền thông tạo điều kiện cho việc chuyển dữ liệu và tri thức không ngừng, thời gian thực giữa các nước.
Để tận dụng ưu thế của xu hướng này, các nước đang phát triển phải hội tụ vào phát triển giáo dục thông tin và công nghệ mạnh để đảm bảo rằng đất nước có đủ tài năng đáp ứng cho những cơ hội mới và thay đổi này. Không có kĩ năng và tri thức trong miền này, có thể là đất nước sẽ bị “ngắt” khỏi mạng kinh doanh toàn cầu. Bằng việc có lực lượng lao động mạnh, các nước đang phát triển có thể tăng tốc sự tăng trưởng kinh tế của mình thông qua ghép nối toàn cầu và động viên việc phát triển khu vực điều có thể cạnh tranh và bắt kịp với các nước khác.
To many countries, globalization means new business opportunities and new markets. The first wave of globalization is the opening of new markets to companies in developed countries to sell products to customers in developing countries but eventually this trend is reversed as competition among countries becomes more intense. The second wave of globalization that begins to take shape now, leverage technologies such as the internet to allow “unknown company” to provide products and services to customers from anywhere and anytime. For example a small company in a remote village in Africa could create a website to sell products to customers in New York, Paris, and Hong Kong, as long as they have a mean to send merchandises to customers quickly and reasonably. A software engineer with specialized skill in Poland could easily work for a company in California without have to leave Poland, since he could charge much lesser salary, because the cost of living in Poland is lower, he could compete with other engineers in the U.S. These “second wave” competitors emerge from all corners of the world contribute to a new global trend toward more commoditization, making it harder than ever for any company to maintain the dominant role in the market. With the second wave of globalization, developing countries could catch up or overcome developed countries because the business rule has changed: “The big will NOT beat the small, but the fast WILL beat the slow”.
Let’s look at some facts: the widespread adoption of information technology has let some developing countries outpace global powers in innovation perspectives. Time Magazine noted in early 2008 that, although there has been an annual growth of 4.7% in global patent applications, the number of patents in China, from1995 through 2005, has increased 800%. Based on this data, Time Magazine predicted that many future innovation and patents in science and technology could increasingly come from developing countries because they are more focusing in these areas and this could change the economy balance to favor them more. According to a study by HarvardUniversity, by 2025, the economies of Brazil, India and China are projected to grow to be half the sizes of the Group of Seven (G7) which include France, Germany, Italy, Japan, Russia, the U.K. and the U.S. Today these three countries economy only comprise less than 15% of the G7. How could they go from 15% to 50% in a very short time? HarvardUniversity concluded that the government of China, India and Brazil understand the advantage of globalization and the establishment of knowledge industry so they invest heavily in education and technology to accelerate this trend. The fact that China and India have graduated over a million engineers each year is the signal that they are planning to dominate this area. Another fact is that both China and Brazil governments are encouraging the use of solar energy and wind power to avoid dependent on oil and avoid global warming is another strongly signal that they are moving ahead when in the U.S, it is still being debated without any conclusion, whether global warming is a nature phenomenon or it is caused by human’s industrialization.
Today with proper education and direction, technology innovation is no longer the exclusive purview of companies in developed economies. The Information Age is replacing industrial focused with high technology, especially green technology processes. These new technology businesses are the growth engines that drive new opportunities in economic, productivity improvements, innovation and added value to the business. The “flatter” world already affects both developed and developing countries as the business continue to change and adjusting. Currently many developing countries have climbed onto the technology wave and are no longer merely emphasize manufacturing production. China already shifted several manufactures to other countries and focusing more on high technology such as electronics and telecommunication. Brazil is putting more efforts on biotechnology as the key economic enabler rather than the former assembly-line manufactures. However, many developing countries are still maintaining manufacturing assembly rather than switching to “high-technology” exports despite the harmful effect of industrialization and the permanent damage to their lands. The main reason is the lack of knowledge and skills to make technological changes happen because their education systems are not designed to keep up with these changes. Many countries in Africa and Central America will continue to struggle because they do not have the vision, infrastructure, management and technical skills, scientific focus education systems to solve obstacles such as poverty, crimes, and illiterate. Many could be “disconnected” from the new global trend and left behind with no hope to recover as global competitive intensify.
The globalization trend is also throwing many companies into crisis because the business environment changes faster than they can cope. Many business models are based on rigid structures that could not be applied across cultural and economic boundaries. While every company has a unique business model that contributes to its success, a global company must balance its business model with the unique culture of the new countries, new regions, or new markets. Dr. Robert Rycroft of GeorgeWashingtonUniversity predicts that in the next ten years, business models will change from technological extension to technological collaboration. The traditional extension approach driven by rigid business budget control and hierarchical organizational structures will not work in a flexible global environment. To survive in the 21st century, global companies must focus on the networked localization of markets, with the emphasis on process, technology and people, thus balancing the centralization and decentralization. In this complexity of the globalized marketplace, successful performance will be based on four capabilities: The ability to collaborate, the ability to understand and respond to change, the ability to localize, and the ability to innovate.
These new capability requirements will change the way business schools provide management training especially in the MBA program. Dr. Rycroft believes that with globalization, the Management of Information Systems (MIS) or Management of Information technology (MSIT) will be “more suitable” over the current Master in Business Administration (MBA) program. Most MBA programs are focusing on finance and management based on the business model of “western culture” where hierarchical organization and “top down control” are standard. With technology now plays an important strategic role, the alignment of business and technology is the main focus of the MIS and MSIT programs and this flexibility is more adaptable to a global business model than the MBA model. He concluded his study by encourages senior management to:
6) Review company’s approach to globalization and assess whether your information technology department can support a global marketplace.
7) Put innovation and information technology at the top of the strategic priority list.
8) Establish training programs to familiarize staff with both technology and the cultural context for the markets in which company operate and intend to operate.
9) Develop a flexible organizational structure that can enable and maintain a collaborative business model.
10) Enable processes that create collaboration paths between the company and external customers.
He also believes that global consumers, facilitated by a free flow of information and money, will redefine economics, commerce, law, culture, social and company structure. With globalization, no country can stay in isolation but be part of a global network and countries with the strongest information and communication technologies will be the most beneficial. He predicts that there will be:
6) Continued pressure on trading arrangements between countries to reduce trade barriers. Such pressure will increase global supply chain integration and interdependence, drive collaboration and sharing of technologies.
7) Increased volatility and rebalancing of the flow of funds between countries will reshape global trade arrangements.
8) Significant and continual redistribution of skills on a global scale where people could work for global companies without have to relocate.
9) Demand for talent will continue to increase, especially in the software and information technology.
10) More communication networks that facilitate the seamless, real-time transfer of data and knowledge among countries.
To take advantage of this trend, developing countries must focus on develop a strong information and technology education to ensure that the country has enough talents to meet these new and changing opportunities. Without skills and knowledge in this area, it is possible that the country could be “Disconnected” from the global business network. By having a strong workforce, developing countries can accelerate its economic growth through global connectivity and encourage regional development which can compete and catch up with others.
Vấn đề tài chính ở Mĩ đã lan rộng khắp các nước đã phát triển rồi tới toàn thế giới. Nó tác động vào mọi doanh nghiệp, lớn và nhỏ, hàng triệu người đang mất việc mỗi ngày, và dường như là cuộc khủng hoảng này có lẽ sẽ còn tiếp tục một thời gian nữa.
Là người chủ doanh nghiệp, bạn tôi đã có hành động giảm chi phí và kiểm soát chi tiêu. Ông ấy đã điều phối thu nhập và chi phí trên cơ sở hàng ngày, tập trung vào việc chúng được điều hành tốt thế nào và chúng đem về bao nhiêu tiền. Ông ấy hiểu các công ti có thể giảm chi phí nhanh hơn thu nhập đang suy giảm của họ sẽ sống sót cho nên ông ấy dự đoán điều khách hàng của mình sẽ không mua trong vài tháng tới và giảm lượng tồn kho. Là người quản lí rất tích cực, ông ấy không chờ đợi khách hàng cắt bỏ đơn hàng bởi vì điều đó có thể quá trễ để giảm chi phí. Ông ấy bao giờ cũng đi trước vấn đề, không đi sau. Tuy nhiên, ông ấy lại không chắc rằng mình đã làm đủ chưa nên ông ấy hỏi tôi ông ấy còn có thể làm gì khác nữa. Tôi bảo ông ấy rằng cuộc khủng hoảng toàn cầu này là thời gian hoàn hảo cho hội tụ vào cải tiến kinh doanh để chứng tỏ quyền lãnh đạo của ông ấy và điều chỉnh kế hoạch kinh doanh của ông ấy cho tương lai để cho ông ấy có thể khôi phục được trong thời kì ngắn nhất khi kinh tế cải thiện. Ông ấy bảo tôi rằng ông ấy không nghĩ về hoạt động cải tiến hay chiều hướng tương lai bởi vì ông ấy bận rộn thế để phản ứng với điều đã xảy ra trên cơ sở hàng ngày cho nên ông ấy mới hỏi ý kiến tôi. Là giáo sư chứ không phải nhà kinh doanh, tôi nghĩ rằng tôi không thể khuyên được người chủ doanh nghiệp thành công, nhưng là người bạn, tôi sẽ thử cho nên sau đây là gợi ý của tôi:
Điều đầu tiên ông ấy cần làm là đặt chiều hướng kinh doanh mới cho công ti của mình bởi vì mô hình kinh doanh mà ông ấy đã theo vài năm trước đây có thể lạc hậu do cuộc khủng hoảng tài chính hiện thời. Trong vài năm qua, công ti của ông ấy đã mở rộng vào nhiều miền một cách thành công nhưng bằng việc mở rộng quá nhanh, ông ấy tiêu tốn nhiều vốn và trong cuộc khủng hoảng tài chính này, ông ấy cần bảo vệ tiền của mình. Ông ấy cần hội tụ vào những miền cho phép ông ấy thu lại ích lợi nhiều nhất trong thời gian này và nhìn trước các bước tiếp khi mọi sự được cải thiện. Bằng việc đặt lại ưu tiên công ti của ông ấy có thể cải tiến hiệu quả kinh doanh và có cơ hội tốt hơn để sống sót so với công ti “Chờ và Xem.” Tôi cũng bảo ông ấy rằng trong cuộc khủng hoảng này, quyền lãnh đạo là mọi thứ cho nên ông ấy phải chuẩn bị cho trận chiến tiếp và trận chiến tiếp sẽ là “trận chiến về tài năng.” Bạn tôi dường như ngạc nhiên bởi vì ông ấy không biết điều tôi ngụ ý bởi “tài năng.” Tất nhiên, khó mà định nghĩa được “tài năng” nhưng định nghĩa đơn giản nhất là người có tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm trong một miền chuyên môn với niềm đam mê làm cho sự việc xảy ra. Đây là những người mà nhà văn nổi tiếng Peter Drucker đã gọi là “Công nhân tri thức.”
Là người nghiên cứu, tôi đã tiến hành vài nghiên cứu về xu hướng toàn cầu và biết rằng có thiếu hụt căng thẳng về người có kĩ năng cao trên khắp thế giới. Không có người có tài để lấp vào những việc cấp cao, việc săn tài năng đã đi tới mức toàn cầu và trên mười năm qua, nhiều công ti đã chuyển việc và hoạt động CNTT cho thế giới đang phát triển, đặc biệt là Ấn Độ và Trung Quốc. Gần đây hơn họ đã bắt đầu chuyển việc mức cao hơn ra nước ngoài nữa, hội tụ vào các công nhân có tài với tri thức chuyên môn, tuy nhiên, nhiều nước đang phát triển bắt đầu bị khan hiếm tài năng của riêng họ. Ngày nay, đại học không tạo ra đủ tài năng cho công nghiệp. Nhiều sinh viên được đào tạo theo lí thuyết “hàn lâm” mà không có kĩ năng nào công nghiệp cần, làm cho nhiều sinh viên không tìm được việc ở nơi có nhiều cơ hội mà không có người đáp ứng. Việc khan hiếm tài năng sẽ tiếp tục chừng nào đại học còn chưa thay đổi và việc săn tài năng sẽ tiếp tục với những người có kĩ năng kiếm được nhiều đề nghị việc.
Một nhân tố khác đóng góp vào cho sự thiếu hụt này là độ tuổi dân số. Điều này sẽ rất nghiêm trọng ở châu Âu và Nhật Bản bởi vì trong mười năm nữa, số người độ tuổi 15-64 được dự phóng sụt giảm tới 7% ở Đức, 9% ở Italy và 14% ở Nhật Bản. Ở Mĩ, việc về hưu của đợt bùng nổ trẻ em (được sinh giữa các năm 1946 -1964) nghĩa là nhiều công ti sẽ mất số lớn công nhân có kinh nghiệm trong năm năm tới. Nghiên cứu cuối cùng được AARP tiến hành, một nhóm về hưu thấy rằng phần lớn các công ti sẽ mất một nửa số người quản lí cấp cao trong năm năm tới và chính phủ Mĩ sẽ mất trên 65% người làm việc hạng cao trong bẩy năm tới. Điều này nghĩa là mọi nước, mọi công ti và mọi người sẽ phải tranh giành gian nan hơn về người tài để lấp vào các vị trí có kĩ năng cao của họ.
Tôi tin trận chiến tài năng này sẽ khốc liệt nhất bên trong các công ti trong ngành công nghiệp công nghệ cao khi kinh tế được cải thiện. Thấy trước điều này, tôi bảo bạn tôi rằng ông ấy phải hành động khác những người khác, khi họ thải người, ông ấy phải dùng cơ hội này để tuyển những tài năng hàng đầu từ các công ti đó và đây là nước đi chiến lược bởi vì khi mọi sự được cải thiện, nhiều công ti sẽ phải thuê người và họ có thể thuê người dưới trung bình “chỉ để lấp vào vị trí cho nhanh chóng” và việc thiếu tài năng sẽ không giúp cho họ trong thị trường cạnh tranh cao. Chiều hướng mới cho kinh doanh của ông ấy sẽ là “hấp dẫn và duy trì” tài năng bởi vì trong xã hội tri thức, tài sản tốt nhất là tài năng, không phải là vốn bởi vì chính con người mới tạo ra của cải chứ không có cách khác. Là người chủ doanh nghiệp thành công, ông ấy phải thuê người giỏi nhất và người lỗi lạc nhất từ những đại học hàng đầu, ông ấy nên tạo ra hệ thống đánh giá để thúc đẩy họ vào những chức vụ quan trọng và để họ canh tân và tạo ra của cải cho ông ấy. Tất nhiên, ông ấy sẽ cần cấp quản lí tốt để quản lí những tài năng này cho nên ông ấy cũng cần đầu tư vào việc huấn luyện quản lí mới. Trong những điều khác, ông ấy phải mở rộng chuẩn mực đạo đức và các mục đích cao hơn chỉ là làm tiền bởi vì tham lam có thể tạo ra vấn đề và hạ doanh nghiệp tốt xuống. Quả vậy, doanh nghiệp dùng nhiều tài năng phải duy trì chuẩn đạo đức cao để đóng góp cho công ti, xã hội và cho toàn thể nền kinh tế của đất nước.
—-English version—–
Knowledge Society – 9
A friend, also owner of a software company asked me about the global financial crisis and when I think it would end. I told him that what we are seeing now is only the beginning of a “chain of events” in globalization, where things happened in one country can have significant impact on others and eventually the entire world. The financial problem in the U.S has spread throughout developed countries then the whole world. It impacts every business, large and small, millions of people are losing their jobs everyday, and it seems that this crisis will probably continue for quite sometime.
Being a business owner, my friend already took action by reducing costs and control expenses. He already monitor revenues and expenses on a daily basis, focus on how well they are being executed and how much money they brought in. He understand companies that can reduce costs faster than their declining revenue will survive so he predicts what his customers will not be buying in the next few months and reduces inventory. As a very active manager, he does not wait for customers cancel orders because it may be too late to reduce costs. He always stays in front of the issues, not behind. However, he was not sure that he has done enough so he asked me what else he could be doing. I told him that this global crisis is the perfect time to focus on business improvement to demonstrate his leadership and adjust his business plan for the future so that he can recover in the shortest period of time when the economy improves. He told me that he has not thinking about improvement activities or future direction because he was so busy reacting to what happened on a daily basis so he asked my opinion. Being a professor not a business person, I do not think that I can advise a successful business owner, but as a friend I will try so following is my suggestion:
The first thing he need to do is set new business direction for his company because the business model that he did few years ago may be obsolete due to the current financial crisis. In the past few years, his company had expanded into many areas successfully but by expanding too fast, he consumes a lot of capital and in this financial crisis, he needs protect his money. He needs to focus on areas that allow him to gain the most benefits during this time and anticipate the next steps when thing improves. By resetting priorities his company can improve business efficiencies and have better chance to survive over company that “Wait and See”. I also told him that in this crisis, leadership is everything so he must prepare for the next battle and the next battle will be “the battle for talent”. My friend seemed surprised because he did not know what I mean by “talent”. Of course, it is difficult to define “talent” but the simplest definition is the one that have knowledge, skills and experiences in a specialized area with a passion to make thing happen. These are people that the famous writer Peter Drucker called the “Knowledge workers”.
As a researcher, I have conducted several studies on the global trends and knew that there was a critical shortage of highly skilled people all over the world. Without talented people to fill top jobs, the hunt for talent has gone global and over the past ten years, many companies have shipped works and IT operations to the developing world, particularly India and China. More recently they have started moving higher level jobs offshore as well, focus on talented workers with special knowledge however, many developing countries begin to have talent shortages of their own too. Today, university does not produce enough talents for the industry. Many students are trained in “Academic” theories without any skills that industry needs resulting in many students could not find jobs where there are so many opportunities without people to fill. The shortage of talent will continue as long as university does not change and the hunt for talent will continue with skilled people get several job offerings.
Another factor that contributes to the shortage is the ageing of the population. This will be very severe in Europe and Japan because in the next ten years, the number of people aged 15-64 is projected to fall by 7% in Germany, 9% in Italy and 14% in Japan. In America, the retirement of the baby-boomers (born between 1946 -1964) means that many companies will lose large numbers of experienced workers in the next five years. The latest study by the AARP, a retirement group found that most companies will lose half their senior managers in the next five years and the U.S government will lose over 65% of top jobs in the next seven years. This means that every country, every company and everyone will have to fight harder for talent to fill their highly skilled positions.
I believe the battle for talent will be at its fiercest within companies in high-tech industries when the economy improves. To anticipate this, I told my friend that he must act differently from others, when they laid-off people, he must use this opportunity to recruit top talents from those companies and this is a strategic move because when things improve, many companies will have to hire people and they may have to hire below-average people “just to fill a position quickly” and lacking talent will not help them in a highly competitive market. The new direction for his business will be “attracting and retaining” talent because in the knowledge society, the best asset is talent, not capital because it is people that create wealth not the other way. As a successful business owner, he must hire the best and the brightest from top universities, he should create a system of evaluation to promote them into important positions and let them innovate and create wealth for him. Of course, he will need good management to manage these talents so he also needs to invest in new management training. Among other things, he must stretch strong ethical codes and higher goals than just making money because greed can create problem and bring down a good business. Indeed, talent-intensive businesses must maintaining high ethical standards to contribute to the company, the society and the overall economy of a country.