Máy bay rời đường băng cất cánh. Ngả người trên ghế, tôi với tay lấy một tờ tạp chí đọc lướt qua vài trang và nhìn xung quanh. Ngồi bên cạnh tôi là một bà cụ khoảng ngoài bảy mươi và một cậu bé độ chừng tám tuổi rất dễ thương và thông minh. Vốn yêu trẻ, tôi nở nụ cười thân thiện. Cậu bé chào đáp lại và giới thiệu tên mình là Bradley. Sau vài phút trò chuyện, tôi bắt đầu bị thu hút bởi đôi mắt trong veo của cậu bé.
|
Đây là lần đầu tiên cháu đi máy bay. Cháu sợ nhìn máy bay lắm cô ạ! – Bradley thân thiện nhìn tôi.
Bradley lắc đầu đầy vẻ tự hào.
Bradley nở một nụ cười:
Tôi gật đầu, cố để cậu bé nhận thấy cậu còn dũng cảm hơn cả tôi.
Máy bay rời khỏi đường băng và bắt đầu cất cánh. Bà cụ ngồi cạnh gọi cậu bé cùng nhìn ra ô kính nhỏ:
|
Tôi chăm chú lắng nghe câu chuyện của hai bà cháu nhưng vẫn chưa hiểu họ đang nói gì. Cậu bé nói với bà:
Vừa nói cậu bé vừa chỉ tay về phía những đám mây xanh đang bồng bềnh trôi, và dường như cậu đã quên mất nỗi sợ hãi ban nãy. Bradley thích thú nhìn ra cửa sổ và bắt đầu miêu tả những gì cậu nhìn thấy bên ngoài. Cậu tưởng tượng đám mây này trong như một nàng bướm xinh xắn, còn đám mây kia giống một chú ngựa con.
|
Rồi cậu xin phép đi vệ sinh. Tôi đứng dậy để cậu bước ra lối đi. Lúc đó tôi mới nhận thấy đôi chân bị tật của cậu bé. Bradley chậm chạp di chuyển đến nhà vệ sinh và khi quay trở lại, cậu giải thích:
Tôi lặng đi.
Máy bay cũng bắt đầu hạ cánh và chúng tôi chia tay nhau.
Tối hôm đó, tôi ngẫm nghĩ rất lâu về câu chuyện của hai bà cháu. Gần mười năm “bay lượn” trên bầu trời nhưng chưa một lần tôi thả ước mơ của mình ra khỏi ô cửa, chưa từng muốn “cưỡi mây” và “hái những chòm sao”, dù đôi chân tôi không hề bị tật nguyền.
Theo sách Đừng bao giờ từ bỏ Uớc mơ