Theo quan niệm truyền thống, vào ngày 23 tháng Chạp, ông Táo sẽ bay lên thiên đình báo cáo với Ngọc Hoàng tất cả những chuyện tốt xấu của gia chủ trong năm. Lễ cúng ông Táo thường được tiến hành vào trưa hoặc chiều.
Theo sự tích ông Táo, cá chép sẽ đưa ông Táo vượt qua Vũ Môn để lên thiên đình gặp Ngọc Hoàng. Tập tục thả cá chép phóng sinh sau khi cúng là một nét đẹp văn hóa, ngụ ý "cá chép hóa rồng", cá chép vượt Vũ Môn.
Hơn thế, trong tâm thức người Việt, cá chép vượt Vũ Môn hay "cá chép hóa rồng" còn là biểu tượng của sự thăng hoa, của tinh thần vượt khó, sự kiên trì, bền chí chinh phục khó khăn để đi tới thành công, biểu trưng cho sức mạnh tiềm ẩn, hướng đến một tương lai tốt đẹp.
Xưa kia, vào ngày cúng ông Táo, người Việt còn có phong tục dựng cây nêu. Vì từ ngày 23 tháng Chạp cho tới đêm Giao thừa sẽ vắng mặt Táo quân dưới trần gian nên người xưa sợ ma quỷ quấy nhiễu, việc trồng cây nêu là một tập tục với ý nghĩa là để trừ tà. Ngày 7 tháng Giêng là ngày "hạ cây nêu".
Cây nêu ngày xưa là một cây tre cao khoảng 5-6 mét. Ở ngọn treo nhiều thứ như vàng mã, xương rồng, tỏi ớt, hình nộm, lá dứa, bầu rượu, cá chép giấy, cờ vải, khánh nhỏ…
Người ta tin rằng những vật nhiều màu sắc treo ở cây nêu, cộng thêm tiếng động của khánh sẽ báo hiệu cho ma quỷ biết nơi đây là nhà có chủ, không được tới quấy nhiễu... Vào buổi tối, người ta còn treo thêm một chiếc đèn lồng ở cây nêu để tổ tiên biết đường về nhà ăn Tết với con cháu.
Táo quân trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam gắn với huyền tích "hai ông một bà" gồm vị thần Đất, thần Nhà và thần Bếp.
Trong quan niệm dân gian, ba vị Táo quân chính là những vị thần định đoạt phúc đức cho mỗi gia đình. Phúc đức này có được do việc ăn ở đúng đạo lý của gia chủ mà nên. Người xưa thường có bàn thờ Táo quân riêng, đặt gần bếp, khi cúng phải nổi lửa lên cho bếp cháy rực. Tuy vậy, giờ đây, người ta giản tiện đi và thường cúng ông Táo ngay tại bàn thờ gia tiên.
Mâm cỗ cúng ngày 23 tháng Chạp là để tiễn Táo quân lên trời chầu Ngọc Hoàng, bẩm báo về những chuyện đã xảy ra trong một năm qua ở dưới trần gian. Mâm cỗ thịnh soạn thể hiện mong muốn của người dân rằng Táo quân dùng cơm xong sẽ "ấm lòng", lên chầu sẽ bẩm tâu những điều tốt đẹp với Ngọc Hoàng và báo cáo nhẹ đi những điều không nên không phải của gia chủ.
Việc làm này ở một khía cạnh nào đó giúp con người sống tốt hơn, tự ý thức lại những việc làm tốt và chưa tốt trong năm cũ.
Người Trung Quốc cũng cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp âm lịch. Trong quan niệm của người Trung Quốc, phúc lộc mà gia chủ được ban cho trong năm mới được quyết định phần nhiều bởi "bài báo cáo" của Táo quân với Ngọc Hoàng trên thiên đình về những việc làm tốt xấu của gia chủ trong một năm đã qua.
Tuy vậy, Táo quân của người Trung Quốc chỉ có một ông một bà. Người Trung Quốc thường lập bàn thờ Táo quân trong bếp với tranh hoặc tượng của ông Táo - bà Táo. Vào ngày 23 tháng Chạp, người ta thường bôi mật ong lên miệng của ông Táo - bà Táo với hàm ý là Táo quân ăn mật xong sẽ "ngọt giọng" hơn và bẩm tâu những điều tốt đẹp về gia chủ lên Ngọc Hoàng.
Khi cúng lễ xong xuôi, gia chủ sẽ đem hóa bức tranh khắc họa ông Táo - bà Táo nếu họ vốn thờ bằng tranh vẽ. Sau đó, vào ngày đầu năm mới, họ sẽ dán bức tranh mới vào vị trí thờ ông Táo - bà Táo như cũ. Nếu gia chủ thờ ông Táo - bà Táo bằng tượng, vào ngày 23 tháng Chạp, họ được phép lau tượng cho sạch sẽ để chuẩn bị đón năm mới.
Ở Trung Quốc, người ta thường dâng cúng nước và chút cỏ khô bên cạnh mâm cỗ cúng, họ coi đây là thức ăn cho ngựa của Táo quân. Theo quan niệm của người Trung Quốc, ngựa mới là con vật đưa Táo quân lên trời.
Những gia đình có quan niệm truyền thống tại Trung Quốc vẫn cúng ông Táo vào ngày 23 tháng Chạp hàng năm, dù vậy, nhiều gia đình hiện đại tại Trung Quốc đã không còn duy trì hoạt động cúng lễ trong gia đình vào dịp này nữa.
Mâm cỗ cúng của người Trung Quốc dâng lên Táo quân thường đặt ở gần nơi đặt bếp nấu của gia đình. Cỗ cúng gồm có các món mặn và đồ ngọt. Đồ ngọt gồm các món như rượu nếp, bánh, mứt, kẹo... với quan niệm rằng cúng Táo quân cả đồ ngọt để ngài nói những lời "ngọt ngào" về gia chủ khi trình tấu lên Ngọc Hoàng.
Người Hàn Quốc có nữ thần Jowangshin là vị thần lửa, vị thần của bếp núc trong các gia đình. Xưa kia, phụ nữ Hàn Quốc thường là người đảm nhận việc cúng tế nữ thần Jowangshin nhưng về sau, tục lệ này mai một dần và giờ người Hàn Quốc không còn thờ vị nữ thần này nữa.
Tuy vậy, nữ thần Jowangshin vẫn là một trong những vị thần "nổi tiếng" nhất trong văn hóa dân gian Hàn Quốc. Vị nữ thần này cũng là người ghi chép lại những chuyện tốt xấu xảy ra trong mỗi gia đình trong suốt một năm và sau đó lên thiên đình bẩm lại với Ngọc Hoàng.
Người Hàn Quốc xưa kia thường thờ nữ thần Jowangshin bằng cách đặt một bát nước trên một bàn thờ làm bằng đất nung gắn ở phía trên nơi có bếp nấu của gia đình. Người phụ nữ trong gia đình thức dậy mỗi sáng sẽ lấy nước mới vào bát rồi cầu khấn những điều may mắn tới với gia đình.
Việc thờ nữ thần Jowangshin từng rất phổ biến ở Hàn Quốc. Vào những dịp lễ Tết hay gia đình có việc đại sự, người ta dâng lên bàn thờ nữ thần Jowangshin bánh gạo và trái cây.
Để thể hiện sự tôn kính đối với nữ thần Jowangshin, trong những gia đình có lập bàn thờ nữ thần, người Hàn Quốc quan niệm không bao giờ được nói những lời dung tục trong gian bếp, cách đứng ngồi trong gian bếp phải luôn thể hiện sự tôn trọng đối với chiếc bếp - vốn là nơi nữ thần ngự trị gần đó, phải luôn giữ gìn cho gian bếp sạch sẽ, gọn gàng...
Người Nhật Bản có nam thần Kojin là vị thần lửa chủ sự chuyện nhà cửa, bếp núc và tài lộc của mỗi gia đình. Người Nhật Bản xưa quan niệm nam thần Kojin ngự ở chiếc bếp nấu của mỗi gia đình. Nam thần Kojin dùng quyền năng của lửa để tiêu diệt những gì đen tối, xấu xa, hắc ám.
Ngài cũng có trách nhiệm quan sát gia chủ để báo cáo tất cả những việc tốt xấu của gia đình tới vị thần cai quản tại địa phương. Người Nhật Bản xưa thường thờ thần Kojin gần bếp nấu của gia đình. Dù vậy, trong xã hội hiện đại bây giờ, tục lệ thờ thần Kojin không còn phổ biến trong đời sống của người dân Nhật Bản nữa.