Vào một ngày tháng hai, tôi đang ở Wisconsin thì Katie nhận được một cuộc gọi từ ai đó trong đội ngũ truyền thông của Barack, nói là có vẻ có vấn đề gì đó. Tôi đã nói ra một điều gì đó gây tranh cãi trong bài diễn văn của mình tại một nhà hát ở Milwaukee ít giờ trước.
Katie cũng bối rối như tôi. Điều tôi đã nói tại Milwaukee thật sự không có gì khác với nội dung tôi vừa phát biểu trước một đám đông khác ở Madison, vốn cũng không có gì khác với những bài diễn văn mà tôi vẫn nói suốt nhiều tháng qua. Chưa từng có vấn đề gì xảy ra trước đây. Tại sao bây giờ lại có?
Cũng trong ngày hôm đó, chúng tôi đã thấy vấn đề. Ai đó đã ghi hình bài nói chuyện dài khoảng bốn mươi phút của tôi và biên tập nó thành một đoạn phim vỏn vẹn mười giây, tách nó khỏi ngữ cảnh và chỉ nhấn mạnh một vài từ.
Bỗng nhiên có những đoạn clip được trích từ cả hai bài diễn văn của tôi tại Milwaukee và Madison, tập trung vào đoạn tôi nói về cảm giác được khích lệ.
Nguyên văn là thế này: “Trong năm nay chúng ta đã nhận ra rằng hy vọng đang quay trở lại! Và hãy để tôi kể với các bạn điều này, lần đầu tiên kể từ khi trưởng thành, tôi thật sự tự hào về nước Mỹ. Không chỉ vì những gì Barack đã làm được, mà vì tôi cho rằng mọi người đang khao khát sự thay đổi. Tôi vẫn luôn mong mỏi được thấy đất nước của chúng ta hướng tới sự thay đổi, và mong rằng tôi không phải cô độc như vậy trong sự chán nản và thất vọng. Tôi đã thấy người ta khao khát được thống nhất với nhau về những vấn đề cơ bản thường gặp, và chuyện đó khiến tôi tự hào. Tôi cảm thấy mình được ưu ái khi trở thành một trong những người chứng kiến những điều này”.
Nhưng gần như tất cả những lời của tôi đã bị lược bỏ sạch sẽ, kể cả những phần nói về sự hy vọng, đoàn kết và sự xúc động của tôi. Sắc thái ý nghĩa đã mất hết, sự chú ý được hướng về một điều duy nhất.
Điều được ghi lại trong những đoạn clip - và đang được phát liên tục trên các kênh vô tuyến, như chúng tôi được thông báo - lại là thế này: “Lần đầu tiên kể từ khi trưởng thành, tôi thật sự tự hào về nước Mỹ”.
Tôi không cần xem tin tức cũng biết nó đang được nhào nặn ra sao. Bà ta không ái quốc. Bà ta luôn ghét nước Mỹ. Đây mới chính là con người thật của bà ta. Trước giờ bà ta chỉ diễn mà thôi.
Đó là cú đấm đầu tiên. Và có vẻ tôi đã tự “mời” nó đến với mình. Khi cố gắng thể hiện một bài diễn văn đơn giản và dễ hiểu, tôi đã quên mất mỗi cụm từ có sức nặng đến mức nào. Tôi đã vô tình dâng cho những kẻ ganh ghét mình một bữa tiệc mười-sáu-từ thịnh soạn. Hệt như hồi học lớp một, tôi không lường trước được chuyện đó.
Tối hôm đó, tôi bay về nhà ở Chicago, cảm thấy tội lỗi và suy sụp tinh thần. Tôi biết Melissa và Katie đang âm thầm dùng điện thoại di động để theo dõi các tin tức xấu, dù họ rất cẩn thận không chia sẻ các tin đó với tôi vì biết rằng làm vậy chỉ khiến mọi thứ thêm tồi tệ.
Tính tới thời điểm đó, ba người chúng tôi đã làm việc với nhau được gần một năm, cùng nhau đi qua những dặm đường dài không đếm nổi và liên tục chạy đua với thời gian để tôi có thể về nhà với bọn trẻ vào ban đêm.
Chúng tôi đã đi qua nhiều khán phòng trên cả nước, ăn nhiều thức ăn nhanh hơn mình mong muốn và đến gặp những vị mạnh thường quân giàu có tại những ngôi nhà tráng lệ đến mức chúng tôi kiềm chế để không há hốc mồm.
Trong khi Barack và đội tranh cử đi lại trên những chiếc máy bay thuê riêng và những chiếc xe du lịch êm ái, chúng tôi vẫn phải cởi giày đứng chờ trong dòng người đang chậm chạp nhích lên từng bước để làm thủ tục kiểm tra an ninh tại sân bay, ngồi ghế bình dân trên các chuyến bay của hãng United và Southwest, trông cậy vào thiện chí của những tình nguyện viên để được trung chuyển đến những sự kiện mà đôi khi diễn ra ở nơi cách nhau đến hàng trăm cây số.
Bà Michelle Obama. Ảnh: Shutterstock. |
Nhìn chung, tôi cảm thấy chúng tôi đã làm việc khá xuất sắc. Tôi đã thấy Katie đứng trên ghế để lớn tiếng xua đuổi những tay thợ chụp hình gấp đôi tuổi mình và thẳng thắn bày tỏ thái độ đối với những phóng viên đặt câu hỏi vượt quá giới hạn cho phép.
Tôi đã thấy Melissa tỉ mỉ sắp xếp từng chi tiết trong lịch trình của tôi, thành thạo điều phối nhiều sự kiện trong một ngày, tay liên tục bấm điện thoại để giải quyết mọi vấn đề có thể phát sinh, đồng thời bảo đảm tôi không bao giờ lỡ vở kịch nào của bọn trẻ tại trường, tiệc sinh nhật của người bạn cũ hay một dịp đi tập thể dục tại phòng gym.
Hai người họ cống hiến hết mình cho chiến dịch này, hy sinh cuộc sống cá nhân của mình để tôi có thể duy trì cuộc sống cá nhân của riêng tôi. Tôi ngồi dưới ánh đèn phát ra từ trần máy bay, lo lắng mình đã làm hỏng chuyện với mười sáu từ kia. Về nhà, sau khi dỗ bọn trẻ ngủ và đưa mẹ về lại nhà trên Đại lộ Euclid để nghỉ ngơi, tôi gọi điện thoại di động cho Barack.
Đó là đêm trước ngày bầu cử sơ bộ tại Wisconsin, và kết quả thăm dò cho thấy cuộc đua đang rất gay gắt. Trong việc lựa chọn đại biểu tham dự Đại hội toàn quốc thì Barack đang dẫn trước với cách biệt nhỏ nhưng ngày càng tăng lên, trong khi Hillary thì cho chạy các mẩu quảng cáo chỉ trích Barack về mọi thứ, từ kế hoạch chăm sóc y tế đến việc anh không chịu tranh luận với bà thường xuyên hơn.
Rủi ro dường như rất cao. Chiến dịch của Barack không thể chịu nổi một cú thất bại. Tôi xin lỗi anh về bài diễn văn của tôi đã gây ra phiền phức. “Em không biết em đã làm gì sai”, tôi nói. “Em vẫn nói y như vậy suốt mấy tháng qua".
Đêm đó Barack đi từ Wisconsin đến Texas. Tôi gần như cảm nhận được anh nhún vai ở đầu dây bên kia. “Nghe này, đó là vì khán giả của em quá đông”, anh ấy nói. “Em đã trở thành một thế lực đáng gờm trong chiến dịch, điều đó nghĩa là người ta sẽ nhắm vào em nhiều hơn. Đây chỉ là bản chất của sự việc thôi".
Như vẫn thường làm mỗi khi chúng tôi nói chuyện với nhau, anh cảm ơn tôi vì đã dành thời gian cho chiến dịch, nói thêm rằng anh lấy làm tiếc vì những hậu quả mà tôi phải gánh chịu. “Anh yêu em”, anh nói với tôi trước khi gác máy. “Anh biết chuyện này rất khó khăn, nhưng rồi nó sẽ qua. Luôn là như thế".