“Để đào địa đạo, trước hết chúng tôi đào hai cái giếng khô”, Đại tá Châu Lâm tiết lộ. “Mỗi giếng có đường kính 0,8 mét. Hai cái giếng nằm cách nhau chừng sáu tới mười lăm mét, tùy thuộc vào địa hình, và được đào tới độ sâu ba đến bốn mét. Khi tới độ sâu đó, hai người ở hai giếng sẽ bắt đầu đào về phía nhau. Vừa đào họ vừa lắng nghe âm thanh của người kia để biết chắc rằng họ sẽ đào thông qua nhau”.
![]() |
(Hình trên là cảnh đào giếng khô) |
Độ sâu của giếng khô ban đầu tùy thuộc vào tầng của địa đạo. Loại giếng sâu từ ba tới bốn mét sử dụng cho tầng thứ nhất của địa đạo, chủ yếu phục vụ việc di chuyển nhanh sang vị trí chiến đấu khác. Độ sâu năm tới sáu mét tương đương với tầng hai, thường được sử dụng để nghỉ ngơi. Còn độ sâu mười hai mét là tầng thứ ba, được sử dụng để tránh bom cũng như xe tăng/máy ủi.
Để xuống dưới giếng sâu, người ta phải khoét đất tạo bậc thang. Những giếng có bán kính nhỏ thì mỗi lần chỉ có một người xuống đào. Một tổ đào thường có năm người: trong khi một người đào thì một người theo sau xúc đất đổ vào rổ, ba người còn lại ở trên mặt đất – một người kéo rổ đất lên, một người mang tới nơi đổ, người còn lại có nhiệm vụ ngụy trang số đất vừa đào lên. Những nhiệm vụ này được các thành viên luân phiên thực hiện.
![]() |
(Ảnh trên cho thấy một cái rổ đựng đầy đất đang được kéo lên từ giếng khô) |
Công đoạn quan trọng nhất trong hoạt động đào hầm thực sự diễn ra trên mặt đất – đó là che giấu số đất vừa đào lên. Bất cẩn trong công đoạn giấu đất có thể khiến kẻ thù nghi ngờ có hoạt động đào hầm ở gần đấy – dẫn tới một cuộc lục soát.
“Chúng tôi có nhiều cách giấu đất”, ông Nguyễn Thành Linh giải thích. “Cách phố biến nhất là rải trên mặt đất rồi lấy lá cây phủ lên. Cách thứ hai là dùng đất lấp hố bom B-52. Đôi lúc chúng tôi lấy đất làm ụ mối nhân tạo, cao chừng một mét rưỡi”.
Sau khi đã đào đường hầm thông hai giếng khô lại với nhau, cái giếng thứ nhất sẽ được lấp phía trên lại. Sau đó người ta đào tiếp một cái giếng thứ ba với cự ly tương tự như hai giếng đầu. Khi giếng thứ ba được đào xong, người ở giếng thứ hai và ba sẽ đào đường hầm thông với nhau. Đến khi đường hầm thông, quy trình lặp lại với việc giếng thứ hai được lấp phía trên lại và người ta bắt đầu đào giếng khô thứ tư. Kỹ thuật này đòi hỏi việc đào và lấp hàng ngàn giếng khô, hết cái này đến cái kia, sau khi đường hầm nối chúng với nhau hoàn tất.
Sau một thời gian, có một vấn đề nảy sinh đó là đất trên bề mặt tại nơi những giếng khô được lấp lại sẽ lõm xuống. Quân cảnh giới bên phía kẻ thù có thể nhận ra rằng hiện tượng lõm xuống này xuất phát từ hoạt động đào hầm. Vì thế, bề mặt phía trên được kiểm tra thường xuyên và được khỏa thêm đất vào mỗi khi xuất hiện sụt lún.
Tốc độ đào hầm cũng thay đổi tùy thuộc vào mùa.
“Vào mùa khô, đất cứng rất khó đào, vì thế phải mất một ngày mới đào xong một cái giếng khô hoặc đào được đoạn địa đạo dài sáu mét”, ông Lâm cho hay. “Vào mùa mưa, tiến độ mỗi ngày có thể nhanh hơn, có thể hoàn tất việc đào hai giếng và nối chúng lại với nhau”.
Đường kính của địa đạo đã hoàn thành thường nhỏ tới mức hai người bò từ hai đầu hầm về phía nhau sẽ rất khó tránh nhau. Một người buộc phải nằm sấp trên nền hầm để người kia bò qua.
Trước khi đào giếng thứ nhất, người ta kiểm tra rất kỹ mặt đất. “Chúng tôi tìm những nơi tốt nhất để đặt cửa ra vào địa đạo”, ông Nguyễn Thành Linh giải thích. “Sau đó sẽ đến công đoạn đào tầng hầm thứ nhất, rồi sau đó đến tầng thứ hai, thứ ba”.
Cửa sập dẫn tới các địa đạo được ngụy trang rất kỹ. Cửa làm bằng gỗ, được che bằng bùn đất và lá khô ở phía ngoài. Lối ra vào địa đạo rất nhỏ, không chỉ để tránh bị phát hiện mà còn để khiến đối phương khó đột nhập một khi phát hiện ra.
Lối ra vào địa đạo không phải lúc nào cũng dẫn lên mặt đất. Một số địa đào gần sông có lối ra ngầm dưới nước.
“Ra vào mấy địa đạo có cửa ngầm dưới nước rất khó”, Tướng Phụng cho biết. “Chúng tôi phải nín thở hơn một phút. Đi vào khó hơn đi ra, bởi khi đi vào thì anh phải mất thời gian lần tìm cửa hầm ở dưới nước. Cửa ngầm dưới nước thường lớn hơn cửa trên cạn để cho dễ tìm. Những lối ra vào này được giữ bí mật nên rất ít người biết đến”.
Địa đạo cần có lỗ thông hơi để dẫn ôxy vào. Việc đặt ống thông hơi tùy thuộc vào độ sâu của hầm.
“Đối với tầng một và hai, lỗ thông hơi được đào từ dưới lên trên”, ông Lâm cho biết. “Xẻng hoặc cật tre được dùng để khơi lỗ thông hơi, sau đó người ta sử dụng một ống tre dài thọc vào lỗ, đẩy lên bề mặt. Khi làm ống thông hơi cho tầng thứ ba, chúng tôi chỉ cần để một thanh tre dài dựng đứng theo cái giếng cạn trước khi lấp phần trên của nó lại”.
Củ Chi là một khu vực tốt để đào địa đạo. Về mặt chính trị, vùng đất này được biết đến như là cứ địa cách mạng, nhưng có một nguyên nhân “sâu xa” hơn để nơi đây được chọn – đó chính là đất. “Kết cấu đất ở Củ Chi chắc, rất tốt cho việc đào hầm”, ông Lâm chia sẻ.
Tướng Phụng cho biết thêm: “Đó là loại đất thủng tổ ong với mực nước ngầm nằm ở độ sâu 25 mét. Đôi khi chúng tôi đào sâu 30 mét mới tới được nơi có nước ngầm”.
Có nhiều cách để chiếu sáng dưới lòng đất. Đèn dầu hỏa hoặc dầu diesel được dùng để thắp sáng ở khu vực hội họp. Nhiều đèn dầu sử dụng một loại chai rượu đặc trưng của Pháp vì kiểu chai này rất khó đổ. (Khi chính quyền Sài Gòn biết chuyện, họ đã cấm bán loại chai ấy). Những người đi lại dưới hầm ngầm thường dùng đèn pin hoặc nến. Tuy nhiên, rất nhiều khi thiếu phương tiện chiếu sáng, họ phải di chuyển hoàn toàn trong bóng tối.
Bất cứ khi nào có thể, những người thiết kế hầm ngầm luôn tìm cách tạo ra một số tiện nghi để giảm bớt việc phải đi ra ngoài. Mỗi một hệ thống hầm đều có nơi cung cấp nước. Để nấu nướng, họ làm bếp “không khói”. Loại bếp này có nhiều ống khói rất dài, được thiết kế đặc biệt để phân tán khói từ bếp lò ra xa, đến khi khói lên tới mặt đất thì hầu như đã tan hết. Dưới hầm có một số nơi đủ rộng để hội họp hoặc giải trí cơ bản. Một số hầm còn có phòng thí nghiệm chất nổ để phục vụ việc chế tạo mìn. Thêm vào đó, người ta còn nuôi gia cầm hoặc gia súc nhỏ.
“Cuộc sống dưới lòng đất an toàn và khá thoải mái”, Tướng Phụng nói. “Lúc không đánh nhau, chúng tôi thay phiên lên mặt đất tập thể dục. Đôi khi chúng tôi đem theo thú nuôi lên mặt đất để tập thể dục, cứ như thể chúng là con người vậy”.
Việt Cộng kiểm soát lòng đất ở Củ Chi, nhưng quyền kiểm soát mặt đất thì thay đổi tùy theo thời điểm trong ngày. Ban ngày, Mỹ và quân Việt Nam Cộng hòa kiểm soát; tuy nhiên, vào chiều muộn thì vai trò thay đổi. Lính Mỹ và quân miền Nam thường rút đi lúc 5 giờ chiều. Sau thời điểm ấy, du kích quân trồi lên từ lòng đất, trở thành những gã săn đêm.
“Ban ngày, phần lớn hoạt động của chúng tôi diễn ra dưới hầm”, Tướng Phụng kể. “Chúng tôi hội họp và nghỉ ngơi. Một vài nhóm đưa chất nổ lên mặt đất cài mìn. Nếu như chạm trán quân địch thì sẽ chiến đấu; nhưng thông thường chúng tôi không chủ động tấn công vào ban ngày”. Ban đêm là một câu chuyện khác.
“Khi màn đêm buông xuống, chúng tôi tấn công doanh trại địch”, Tướng Phụng kể tiếp. “Sở trường của chúng tôi là đánh đêm. Dù đối phương có máy bay thả pháo sáng cũng như có thiết bị quan sát hồng ngoại ở căn cứ của họ, nhưng những thứ đó không hiệu nghiệm khi đối phó với quân du kích”.
![]() |
Quyết tâm của Việt Cộng – “chí thép” của họ – trong việc bảo vệ Củ Chi hiện lên qua lời giải thích của ông Lâm: “Chúng tôi biết quân địch luôn quyết tâm tìm và phá hủy hệ thống địa đạo. Họ, cũng như chúng tôi, biết rõ những gì diễn ra ở Củ Chi, cũng như diễn tiến của chiến tranh; địa đạo còn, chúng tôi sẽ thắng; địa đạo mất, người Mỹ sẽ thắng. Thế nên chúng tôi quyết tâm không để mất dù chỉ một phân địa đạo. Đó là một cuộc đua về ý chí mà hệ quả của nó là hàng loạt trận chiến kịch liệt. Chúng tôi đã hy sinh rất nhiều để giành thắng lợi”.
Du kích Củ Chi phải trả giá đắt cho chiến thắng. Ba mươi năm chiến đấu chống Pháp và Mỹ đã cướp đi 30.000 mạng sống.
“Hơn tám mươi phần trăm con số đó chết dưới tay người Mỹ”, Tướng Phụng ước tính. “Chúng tôi rất tự hào khi đã hoàn thành sứ mệnh bằng quyết tâm và tinh thần mãnh liệt. Nhưng phải thừa nhận rằng chúng tôi đã phải trả giá đắt bằng máu của những chiến sĩ ở đây”.
Trích "Chân trần chí thép" - James G. Zumwalt