Ngày 15 /12/1970, tôi chính thức nhận quyết định về dạy Văn tại trường cấp 2 xã Hải Thanh quê hương. May mắn và thuận lợi cho tôi là thời điểm này, thầy Trần Ngọc Châu - người thầy tâm huyết tri kỷ đã dày công dạy dỗ, bồi dưỡng tôi trở thành học sinh giỏi Toán miền Bắc năm học lớp 7 ở xã Hải Phương (tôi đã kể nhiều trong tự truyện Tôi đi học), nay đang dạy và làm tổ trưởng tổ Toán của trường Hải Thanh.
Thầy mừng lắm:
- Tốt rồi! Không gì bằng được về với quê hương trong hoàn cảnh của Ký. Mấy hôm rồi dư luận cũng xôn xao khi hay tin cậu về công tác ở trường. Nhiều giáo viên băn khoăn không hiểu Ký sẽ dạy thế nào.
Có người còn nói rằng Thủ tướng ưu ái cho cậu về quê dạy là để có chỗ xếp lương thôi chứ cậu thì dạy dỗ gì… Riêng L. thì khăng khăng: Mình tin anh Ký sẽ dạy tốt.
L. là tổ trưởng tổ Văn, cậu biết rồi đấy. Cô ấy xem ra quý trọng và có cảm tình với Ký lắm. Có gì cần trao đổi chuyên môn cứ gặp L. nhé! (L. tốt nghiệp sư phạm 7+3 Nam Định, kém tôi 2 tuổi, quê xã Hải Hà liền kề xã tôi).
Thầy Châu dẫn tôi tới gặp cô hiệu trưởng Nguyễn Thị Thuần. Cô cũng trạc tuổi thầy Châu, quê Nghệ An. Chồng cô là kỹ sư ở phòng Nông nghiệp huyện. Gia đình cô gồm năm người: Hai vợ chồng, hai con và bà mẹ già cùng tá túc ở một gian phòng tuềnh toàng, chật hẹp trong khu nhà tập thể vách đất, mái rạ đơn sơ.
Tính cô rất thẳng thắn, cương trực nhưng lại vô cùng tâm lý, tế nhị. Biết tôi không học sư phạm, mọi chuyện lên lớp đều bỡ ngỡ, cô thống nhất bước đầu chỉ giao tôi dạy một lớp văn 6. Hầu mong tôi làm quen với các kỹ năng sư phạm và chuyên môn cần thiết, cô cho phép tôi một tháng tự do đi dự giờ, dạy tập để học hỏi, tích lũy trước khi chính thức nhận lớp.
Sau hai tuần, mọi chuyện đã thấy quen quen, tôi quyết định trao đổi với cô tổ trưởng L. bố trí để tôi dạy thử một tiết. Cô đồng ý ngay, và cho tôi tùy chọn lớp dạy, bài dạy. Suy đi tính lại, tôi quyết định chọn lớp 7B do chính L. dạy Văn và làm chủ nhiệm.
Lý do thật đơn giản: Đây là lớp học sinh có nề nếp. Dự giờ, tôi thấy các em có cảm hứng văn chương, song cái ngầm ý sâu xa là sẽ trực tiếp nhận được sự chỉ dẫn chu đáo và những góp ý sáng suốt của L. - người mà thầy Châu “bật mí” là đang rất có “cảm tình” với tôi.
Nhưng cái lo không phải không có. Nếu tiết dạy thất bại thì uy tín, niềm tin và danh dự của tôi sẽ ra sao dưới mắt của L.? Khi đó, liệu tôi có còn đủ tự tin và bản lĩnh để lên lớp những tiết tiếp theo nữa không?
Về bài dạy, tôi quyết định chọn bài Gửi lòng con đến cùng cha của Thu Bồn. Đây là bài thơ giàu âm hưởng ca dao, nồng nàn cảm xúc về Bác, được ra đời trong những ngày tang Bác mới được chọn in trong phụ lục Văn tuyển 7 mà tôi tâm đắc.
Để chuẩn bị cho tiết dạy có ý nghĩa lịch sử này, suốt mấy ngày tôi suy nghĩ, trăn trở. Việc đầu tiên tôi quyết định học thuộc lòng bài thơ. Từ đó, ngày cũng như đêm, lúc ở trường cũng như ở nhà; khi đứng, khi đi, khi nằm, khi ngồi, tôi luôn nhẩm đọc lại bài thơ, suy nghĩ khám phá để hiểu thấu nó ở mọi cung bậc tình cảm cũng như ở các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc.
Được L. chỉ dẫn tỉ mỉ chu đáo, tôi tập trung soạn giáo án khá công phu. Ngoài mực xanh đen, các tiêu mục và các ý cần khắc sâu, tôi cẩn thận dùng mực đỏ nên nhìn vào khá bắt mắt. L. xem xong nhoẻn cười:
- Anh soạn gì mà kỳ công thế? Bọn em như bài này soạn dài lắm cũng chỉ 2 trang là đã thấy oải lắm rồi. Đằng này anh lại dùng chân nắn nót từng chữ mà dài cả hơn 10 trang thế này em phục anh quá đấy.
Dừng giây lát như để ngẫm ngợi điều gì L. nói tiếp với giọng vừa như e dè lại vừa như dứt khoát:
- Nhưng em nói thật nhé. Bài soạn nội dung đầy đủ và sâu sắc, các ý khai thác khám phá độc đáo sáng tạo. Song em rất lo nếu không “liệu cơm gắp mắm”, giờ dạy của anh coi chừng sẽ cháy giáo án đấy.
Thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký. Ảnh: vienkyluc. |
Quả thật lời cảnh báo của L. không thừa. Vì trung thành với giáo án lại quá mải mê với dòng chảy cảm xúc dâng trào, chi tiết hình ảnh thơ nào cũng muốn giảng tận cùng để các em hiểu thấu nên khi tiếng trống “Tùng!Tùng tùng!” vang lên báo giờ học đã hết mà bài dạy của tôi vẫn còn dang dở cả một phần nội dung quan trọng.
Trong lúc tôi đang lúng túng không biết nên dừng lại hay giảng tiếp thì cả lớp bỗng đồng thanh hô vang: “Thầy cứ dạy tiếp đi ạ! Dạy tiếp đi ạ!”. Song nghĩ việc ảnh hưởng đến tiết học sau của giáo viên khác, tôi đành xin tạm biệt, chào các em trong tâm trạng của người có lỗi.
Tôi nhận ra L. ngồi ở bàn cuối lớp nhoẻn miệng cười khá tươi vừa có vẻ như hài lòng lại vừa đượm nét băn khoăn khó nói.
Chiều đó, L. ra thăm nhà tôi, trực tiếp trao đổi về tiết dạy ban sáng. Cô hồ hởi khen tiết dạy có hồn, học sinh được cuốn hút từ A đến Z. Cô đặc biệt tâm đắc về khâu đọc mẫu và triển khai bình giảng mở rộng nâng cao các câu thơ, ngữ thơ, từ thơ và hình ảnh thơ tiêu biểu.
Cô nói, nghe tôi đọc mà cứ ngỡ chính tác giả bài thơ đang đọc. Ở câu “nhẹ nhàng nên Bác đi xa”, cô rất thích cách gợi ý dẫn dắt để các em trao đổi phân tích thấm thía về đức hy sinh cùng công lao cao cả của Bác và lòng tự hào về Bác kính yêu.
- Sở dĩ Bác đi xa, tên tuổi sự nghiệp của Bác không chỉ lan tỏa làm xúc động triệu triệu con tim người dân đất Việt mà còn vượt xa tới mọi xứ sở khắp năm châu bốn biển vì một lẽ: Bác “Cho con núi rộng sông dài / Cho con lưỡi kiếm đã mài ngàn năm / Cho con những ánh trăng rằm / Có quà có bánh lời thăm ân tình”.
Trong khi đó, hành trang của Bác chỉ là “một đôi dép mỏng đã lì chông gai”; một đôi dép mà đã có lần người trợ lý thấy nó bị hư trầm trọng, Bác đã phải dùng chỉ khâu rồi dùng 23 chiếc đinh nhỏ đóng cho các lớp chuồn ở đế khỏi bong tróc, quai dép khỏi tuột nên quyết định thay đôi mới cho Bác, Bác kiên quyết không chịu với lý lẽ: “Hiện nay, dân ta còn nghèo. Biết bao cụ già em nhỏ còn phải đi chân đất. Bác có dép để đi thế này là hạnh phúc lắm rồi!”.
Nghe anh giảng đến đây, em thấy cả lớp em nào cũng lặng đi xúc động; còn em thì không thể không đưa mùi xoa lên thấm mắt. Nhìn chung, tiết dạy của anh còn dang dở nhưng thế là thành công rồi. Nếu tiết Văn nào cũng dạy được thế thì không có lý do gì học sinh lại chán học Văn được.
Có lẽ cô L. khen thế là để động viên tôi đấy, chứ thực tình sau tiết dạy, tôi còn nhiều băn khoăn lắm. Vì phụ thuộc quá nhiều vào giáo án nên tiết dạy thiếu sự thanh thoát, khoáng đạt.
Sự tự chủ trong biểu đạt cảm xúc, trong triển khai mở rộng các ý bình giảng cũng luôn bị gò gẵng, cứng nhắc. Việc phụ thuộc vào giáo án soạn quá dài còn dẫn đến một hệ lụy rất dễ nảy sinh phản cảm: Phải dùng chân để lật quá nhiều lần trang giáo án đặt trên bàn trong một tiết giảng.
Một điều băn khoăn lớn nữa là chuyện viết bảng. Ở tiết dạy này, L. đã giúp tôi viết tên bài và một vài tiêu mục chính. Còn những tiết dạy khác thì sao? Chẳng lẽ tiết nào cũng có một người phụ mình viết bảng ư? Sao lại có chuyện đó được! Dứt khoát trước sau gì mình cũng phải tìm ra cách tự viết bảng thôi.
Tóm tại, sau tiết dạy tôi mới vỡ ra nhiều điều phải giải quyết, khắc phục. Song cái quý nhất ở tiết dạy đầu tiên này là niềm tin trong tôi bước đầu đã được xác lập. Tôi hoàn toàn có thể dạy tốt nếu từng bước tìm ra cách khắc chế những nhược điểm vừa lộ diện.
Và tôi biết, để hiện thực hóa điều đó trong hoàn cảnh của mình, chắc chắn tôi sẽ phải đối đầu với không ít bài toán hóc búa không dễ gì tìm ra đáp số trong một sớm một chiều.