LTS: Hành trình về Phương Đông kể về câu chuyện một phái đoàn ngoại giao do Tiểu vương Ranjit Singh dẫn đầu sang thăm viếng nước Anh. Trong buổi viếng thăm Đại học Oxford, vua Ranjit đã sai một đạo sĩ biểu diễn. Vị đạo sĩ này đã làm đảo lộn quan niệm khoa học lúc bấy giờ. Không những ông ta có thể uống tất cả mọi chất hóa học, kể cả những chất cường toan cực mạnh mà không hề hấn gì, ông ta còn nhịn thở hàng giờ đồng hồ dưới đáy một hồ nước.
Hội Khoa học Hoàng gia đã phải triệu tập một ủy ban để điều tra những hiện tượng này. Một phái đoàn gồm nhiều khoa học gia tên tuổi được chỉ thị sang Ấn Độ quan sát, sưu tầm, tường trình và giải thích những sự kiện huyền bí này. Và cho đến hôm nay sự huyền bí về Phương Đông vẫn luôn là điều mà các nhà khoa học trên thế giới muốn khám phá chinh phục.
Vì thế Hội Khoa học Hoàng gia đã bảo trợ cho phái đoàn chúng tôi đến Ấn Độ để nghiên cứu những hiện tượng huyền bí này. Tuy nhiên, sau hai năm du hành khắp Ấn Độ từ Bombay đến Calcutta, thăm viếng hàng trăm đền đài, tiếp xúc với hàng ngàn giáo sĩ, đạo sĩ nổi tiếng, phái đoàn vẫn không thỏa mãn hay học hỏi được điều gì mới lạ. Phần lớn các giáo sĩ chỉ lặp đi lặp lại những điều đã được ghi chép trong kinh điển, thêm thắt vào đó những mê tín dị đoan, thần thánh hóa huyền thoại để đề cao văn hóa xứ họ. Đa số tu sĩ đều khoe khoang các địa vị, chức tước họ đã đạt.
Vì không có một tiêu chuẩn nào để xác định các đạo quả, ai cũng xưng là chân sư (Rishi), sư tổ (Guru), hay đại đức (Swami), thậm chí có người xưng là thánh nhân giáng thế (Bhagwan). Ấn Độ giáo không có một chương trình đào tạo tu sĩ như Thiên Chúa giáo, bất cứ ai cũng có thể vỗ ngực xưng danh, ai cũng là tu sĩ được nếu y cạo đầu, mặc áo tu hành, xưng danh tước, địa vị để lôi cuốn tín đồ.
Ấn Độ giáo không phải một tôn giáo thuần nhất, mà có hàng ngàn tông phái khác nhau, mỗi tông phái lại chia làm nhiều hệ phái độc lập chứ không hề có một tổ chức hàng dọc như các tôn giáo châu Âu. Các giáo sĩ mạnh ai nấy giải thích kinh điển theo sự hiểu biết của họ. Phần lớn cố tình giảng dạy những điều có lợi cho họ nhất, ngoài ra họ còn tụ họp để phong chức tước lẫn nhau hay chống đối một nhóm khác. Sự tranh luận tôn giáo là điều rất thường xảy ra, nhóm nào cũng tự nhận họ mới là chính thống, mới là đúng với giáo lý của Thượng đế. Do đó, cuộc nghiên cứu tôn giáo của phái đoàn không mang lại kết quả mong ước, nhiều lúc mọi người thấy lạc lõng, rối rắm không biết đâu là đúng, là sai. Hội Khoa học Hoàng gia chỉ thị việc nghiên cứu phải đặt căn bản trên nền tảng khoa học, hợp lý, nhưng lấy tiêu chuẩn này áp dụng sẽ gặp nhiều trở ngại vì văn hóa Ấn Độ và văn hóa châu Âu khác hẳn nhau. Người dân xứ này chấp nhận các tông phái như một điều hiển nhiên, không ai chất vấn khả năng các giáo sĩ hay suy xét xem lời tuyên bố của họ có hợp lý hay không? Họ sùng tín một cách nhiệt thành, một cách vô cùng chịu đựng.
Thất vọng về cuộc du khảo không mang lại kết quả như ý muốn, giáo sư Spalding một mình lang thang đi dạo trong thành Benares.
Giữa rừng người hỗn tạp ồn ào, một thuật sĩ cởi trần đang phùng má thổi kèn gọi rắn. Một con rắn hổ to lớn nằm trong sọt ngửng cổ lên cao, phun phì phì. Tiếng kèn lên bổng xuống trầm, con rắn cũng lắc lư, nghiêng ngả. Đám đông xúm lại xì xầm coi bộ khâm phục lắm. Nếu họ hiểu con rắn đã bị bẻ răng, nuôi bằng bã á phiện và được luyện tập cẩn thận… Khắp xứ Ấn, các trò bịp bợm này diễn ra không biết bao nhiêu lần trong ngày, nó sẽ kết thúc khi một vài tên "cò mồi" đứng trong đám đông vỗ tay, ném tiền vào rổ, và khuyến khích dân chúng ném theo… Đang mải mê suy nghĩ, Spalding bỗng thấy một người Ấn to lớn, phong độ khác thường chăm chú nhìn ông mỉm cười. Người Ấn lễ phép cúi đầu chào bằng một thứ tiếng Anh hết sức đúng giọng, ông cũng đáp lễ lại. Câu chuyện dần dần trở nên thân mật, Spalding bèn lên tiếng hỏi người bạn mới quen nghĩ sao về những trò bịp bợm này. Người Ấn trả lời:
- Các vị minh sư đâu có cư ngụ trong đền thờ lộng lẫy, họ đâu in danh thiếp với các chức tước, địa vị to lớn, trọng vọng. Họ đâu cần phải quảng cáo các quyền năng, đạo quả hoặc in tên trong điện thoại niên giám. Một vị minh sư không nhất thiết phải có đông đệ tử, muốn tìm gặp họ phải biết phân biệt. Các đạo sĩ mà ông đã gặp, sở dĩ nổi tiếng và có đông giáo đồ vì họ biết thu thập đệ tử qua các hình thức quảng cáo, biết hứa hẹn những điều giáo đồ muốn nghe, họ chả dạy điều gì ngoài một số "từ chương" trong kinh sách. Điều này một người thông minh có thể tự đọc sách, tự nghiên cứu lấy. Phải chăng ông thất vọng vì các đạo sĩ ông đã gặp chưa từng có các kinh nghiệm tâm linh?
Giáo sư Spalding ngạc nhiên:
- Tại sao ông biết rõ như thế?
Người Ấn mỉm cười:
- Các ông đã bàn với nhau rằng cuối tháng này, nếu không thu thập thêm điều gì mới lạ, phái đoàn sẽ trở về châu Âu và kết luận rằng châu Á chả có điều gì đáng học hỏi. Giai thoại về các bậc hiền triết, thánh nhân chỉ là những huyền thoại để tô điểm cho vẻ huyền bí Á châu.
Giáo sư Spalding mất bình tĩnh:
- Nhưng tại sao ông lại biết những điều này? Chúng tôi vừa bàn định với nhau như thế, ngay trong phái đoàn còn có nhiều người chưa rõ kia mà?
Người Ấn nở một nụ cười bí mật và thong thả nhấn mạnh:
- Ông bạn thân mến, tư tưởng có một sức mạnh thần giao vượt khỏi thời gian và không gian. Thái độ của ông bạn là lý do mà hôm nay tôi đến đây để chuyển giao một thông điệp ngắn ngủi, chắc hẳn ông bạn rất thuộc Kinh Thánh: "Hãy gõ, rồi cửa sẽ mở. Hãy tìm, rồi sẽ gặp". Đó là thông điệp của một vị chân sư nhờ tôi chuyển giao.
Sự kiện người Ấn đứng giữa chợ Benares nhắc đến một câu trong Kinh Thánh làm giáo sư Spalding ngây ngất như say như tỉnh. Toàn thân ông rung động như chạm phải một luồng điện cao thế.
Ông lắp bắp:
- Nhưng làm sao chúng tôi biết các ngài ở đâu mà tìm? Chúng tôi đã bỏ ra suốt hai năm trời đi gần hết các đô thị, làng mạc xứ Ấn…
Người Ấn nghiêm nghị trả lời:
- Hãy đến Rishikesh, một thị trấn nằm bên trong dãy Hy Mã Lạp Sơn, các ông sẽ gặp những đạo sĩ hoàn toàn khác hẳn những người đã gặp. Những đạo sĩ này chỉ sống trong các túp lều sơ sài, hoặc ngồi thiền trong các động đá. Họ ăn rất ít và chỉ cầu nguyện. Tôn giáo đối với họ cần thiết như hơi thở. Đó mới là những người dành trọn cuộc đời cho sự truy cầu chân lý. Một số người đã thắng đoạt thiên nhiên và chinh phục được các sức mạnh vô hình ẩn tàng trong trời đất… Nếu các ông muốn nghiên cứu về các quyền năng, phép tắc thần thông thì các ông sẽ không thất vọng.
Người Ấn im lặng một lúc và nhìn thẳng vào mặt giáo sư Spalding:
- Nhưng nếu các ông muốn đi xa hơn nữa, để tìm gặp các đấng chân sư (Rishi) thì các ông còn mất nhiều thời gian nữa…
Giáo sư Spalding thắc mắc:
- Ông vừa dùng danh từ chân sư, vậy chứ chân sư (Rishi) và đạo sĩ (Yogi) khác nhau thế nào?
- Nếu ông tin ở thuyết tiến hóa của Darwin, thì tôi xin tóm tắt: "Sự tiến hóa của linh hồn đi song đôi với thể xác. Chân sư là một người đã tiến rất xa trên mức thang tiến hóa; trong khi đạo sĩ chỉ mới bắt đầu…".
- Như thế thì các vị chân sư có thể làm các phép lạ được chứ?
Người Ấn mỉm cười khẽ lắc đầu:
- Chắc chắn như thế, nhưng phép thuật thần thông đâu phải là mục đích tối hậu của con đường cầu đạo. Nó chỉ là kết quả tự nhiên do sự tập trung tư tưởng và ý chí. Đối với các bậc chân sư, sử dụng phép thuật là điều ít khi nào các ngài phải làm. Mục đích của con đường đạo là Giải Thoát, là trở nên toàn thiện như những đấng cao cả mà Đức Jesus là một.
Giáo sư Spalding cãi:
- Nhưng Chúa Jesus đã từng làm các phép lạ.
Người Ấn bật cười trả lời:
- Ông bạn thân mến, bạn nghĩ rằng Chúa Jesus làm vậy cho mục đích khoe khoang hay sao? Không bao giờ, đó chỉ là những phương tiện để cảm hóa những người dân hiền lành, chất phác và đem lại cho họ một đức tin mà thôi.
Một lần nữa, người Ấn lạ lùng này lại nói về một đấng giáo chủ mà hầu như mọi người phương Tây đều biết đến. Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
- Thế tại sao các đấng Chân sư không xuất hiện dạy dỗ quần chúng?
Người Ấn nghiêm nghị:
- Ông nghĩ rằng các ngài sẽ tuyên bố cho người đời biết mình là ai chăng? Nếu Đức Phật hay Đấng Christ hiện ra tuyên bố các giáo điều, liệu ông có chịu tin không? Có lẽ các ngài phải biểu diễn các phép thần thông như đi trên mặt nước hay biến ra hàng ngàn ổ bánh mì cho dân chúng thì các ông mới tin phải không? Điều này chắc rồi cũng sẽ có một số đạo sĩ Hắc đạo biểu diễn để lôi cuốn tín đồ, nhưng các đấng cao cả đâu có làm thế phải không ông bạn?
- Nhưng… nhưng các ngài sống ẩn dật như thế có lợi gì cho thế gian đâu?
Người Ấn mỉm cười:
- Vì không biết rõ các ngài nên thế gian không thể xét đoán các ngài một cách đúng đắn. Ai bảo rằng các ngài không giúp ích gì cho nhân loại? Nếu tôi quả quyết rằng đấng "Christ" vẫn thường xuất hiện và vẫn giúp đỡ nhân loại không ngừng thì ông có tin không? Có lẽ ông sẽ đòi hỏi một bằng chứng, một hình ảnh hoặc một cái gì có thể chứng minh được. Bạn thân mến, chúng ta không dễ gì hiểu thấu những tư tưởng sâu xa của các đấng cao cả. Có lẽ câu trả lời giản dị nhất là các ngài phụng sự thế gian một cách âm thầm, lặng lẽ bằng cách phóng ra các tư tưởng yêu thương, bác ái, tốt lành mà sức mạnh có thể vượt thời gian và không gian. Tuy mắt ta không trông thấy nhưng hiệu lực của nó vô cùng mạnh mẽ. Khi xưa, nhân loại còn ấu trĩ nên các ngài đã xuất hiện để đặt một nền móng căn bản, hướng dẫn loài người. Đến nay, nhân loại đã ít nhiều trưởng thành và phải tự lập, sử dụng khả năng của mình, chịu trách nhiệm về những việc họ làm.
Giáo sư Spalding suy nghĩ và hỏi:
- Lúc nãy bạn nói rằng có một vị Chân sư nhờ bạn chuyển giao một thông điệp cho chúng tôi. Bạn có thể cho tôi biết địa chỉ của ngài được không?
- Bạn thân mến, tất cả đều do Nhân Duyên, đến khi nào đủ duyên bạn sẽ gặp các ngài.
Nói xong, người Ấn Độ cúi đầu chào và biến mất trong đám người đông đúc, ồn ào giữa ngôi chợ của thành phố Benares.
Hành trình về Phương Đông được viết bởi giáo sư Spalding, trưởng phái đoàn do Hội Khoa học Hoàng gia Anh cử sang Ấn Độ để tìm hiểu những điều huyện bí về con người thiên nhiên nơi đây. Điều đáng tiếc là sự trở về của phái đoàn đã gặp nhiều chống đối mãnh liệt từ một dư luận quần chúng đầy thành kiến hẹp hòi. Các nhà khoa học bị bắt buộc phải từ chức, không được tuyên bố thêm về những điều đã chứng kiến và nhìn thấy.
Năm 1924 giáo sư Spalding cho xuất bản cuốn sách "Journey To The East" tại Nhà xuất bản Adyar Ấn Độ năm 1924 và cuốn sách đã gây ra một dư luận hết sức sôi nổi không chỉ ở nước Anh mà ở cả châu Âu và Mỹ. Ít lâu sau, vì tự ái và sĩ diện, chính phủ Anh đã cấm xuất bản cuốn sách này ở Anh Quốc, rồi Thế chiến thứ hai xảy ra, cuốn sách sau cùng cũng không được tái bản ở bất kỳ nhà xuất bản nào khác trên thế giới. Mãi dến năm 2009, Nhà xuất bản Booksurge - Hoa Kỳ đã tìm mọi cách liên lạc với dịch giả Nguyên Phong - bây giờ là Giáo sư John Vu - để xin phép chuyển ngữ cuốn sách bản tiếng Việt này (được Nguyên Phong dịch phóng tác từ năm 1974) sang tiếng Anh với tựa sách Journey To The East phát hành trên thế giới, sau 85 năm thất truyền, và cuốn sách lại nhận được rất nhiều tranh luận và sự quan tâm đặc biệt của bạn đọc trên thế giới.
Lúc đó người ta vội tìm đến những người trong phái đoàn, thì được biết họ đã rời bỏ châu Âu để sống đời tu sĩ trong dãy Tuyết Sơn. Điều gì đã khiến các nhà khoa học trong đoàn nghiên cứu từ bỏ tất cả để trở về sống gần hơn với thế giới tự nhiên. "Khi ra đi, họ không mấy tin tưởng nhưng khi trở về, họ đều đổi khác. Phương Đông có những chân lý quan trọng đáng để cho người phương Tây nghiên cứu, học hỏi. Đã đến lúc người phương Tây phải quay về phương Đông để trở về với quê hương tinh thần".
(Trích sách Hành trình về Phương Đông, do First News phát hành)